Giới thiệu Mục Lục Nghe Audio Kiếm Điểm Huyết Họa Tu Chân Giới tác phẩm tiên hiệp đầu tay do Tâm Vân viết. Tình trạng đang ra, số lượng từ hơn sáu triệu, tác phẩm vẫn đang trong quá trình xây dựng cùng sửa đổi. ---Giới thiệu nội dung: Bộ truyện kể về cuộc đời của một con người bình thường nhưng vì hoàn cảnh ép buộc mà dần trở nên phi thường.
Giới thiệu. CÔNG TY TNHH S-TEC VINA. S- TEC SYSTEM là một Công ty lớn tại Hàn Quốc, kể từ khi tách ra khỏi tập đoàn tập đoàn Samsung trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển đến nay công ty đã có tới 17,000 nhân sự với gần 50 công ty con trên toàn quốc. Ngoài phát triển trong
Sứ mệnh Mang sản phẩm tôn mạ chất lượng được sản xuất tại Việt Nam ra thị trường thế giới. 03. Giá trị cốt lõi CHẤT LƯỢNG Mỗi thành phẩm tôn mạ đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng. CÔNG NGHỆ Tiên phong ứng dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến nhất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng bền vững, thân thiện với môi trường. CON NGƯỜI
Giới thiệu. Ở mỗi gia đình Việt, chúng tôi tin rằng hạnh phúc của người nội trợ là yếu tố tiên quyết giữ lửa cho hạnh phúc gia đình. Đó là động lực để chúng tôi mang sự tiện nghi trong sản phẩm gia dụng đến với từng gian bếp, giúp người nội trợ tiết kiệm
GIỚI THIỆU - Gỗ Trọng Tín. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Trọng Tín được thành lập và hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0102012815 do Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Hà Nội cấp ngày 02 tháng 06 năm 2004. Chúng tôi
Mang giải pháp công nghệ tiên tiến đến doanh nghiệp. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển phần mềm cùng đội ngũ nhân viên tâm huyết và giàu kinh nghiệm, Công ty IDTEK chúng tôi tự tin mang lại những sản phẩm và dịch vụ chất lượng giúp cải tiến doanh nghiệp
rL7T. Ngày đăng 10/03/2016, 1032 NĐC 1822 1888 quê nội ở Thừa Thiên Huế; quê ngoại ở Gia Định. Cuộc đời ông gặp nhiều trắc trở gian truân mù loà, công danh không thành, tình duyên trắc trở, gặp buổi loạn li. Nhưng vượt lên nỗi đau, cuộc đời ông là bài học lớn về nghị lực sống, sống để cống hiến cho đời. Bị mù mắt nhưng NĐC không chịu đầu hàng số phận, vẫn sống làm việc có ích dạy học, làm thuốc, sáng tác thơ văn. Là thầy giáo ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ. Là thầy thuốc ông xem trọng y đức lấy việc cứu người làm trọng. Là nhà thơ ông quan tâm đến việc dùng văn chương giúp con người hướng cái thiện, đúng đạo lý làm người. + Là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Khi Pháp xâm lược ông nêu cao lập trường kháng chiến, sáng tác thơ văn khích lệ nghĩa sĩ. Khi triều đình đầu hàng ông nêu cao khí tiết, từ chối mọi sự cám dỗ, giữ gìn lối sống trong sạch. TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN Nguyễn Đình Chiểu I Nhà thơ Nguyễn Đỡnh Chiểu - NĐC 1822- 1888 quê nội Thừa Thiên- Huế; quê ngoại Gia Định - Cuộc đời ông gặp nhiều trắc trở gian truân mù loà, công danh không thành, tình duyên trắc trở, gặp buổi loạn li - Nhưng vượt lên nỗi đau, đời ông học lớn nghị lực sống, sống để cống hiến cho đời Bị mù mắt NĐC không chịu đầu hàng số phận, sống làm việc có ích dạy học, làm thuốc, sáng tác thơ văn Là thầy giáo ông đặt việc dạy người cao dạy chữ Là thầy thuốc ông xem trọng y đức lấy việc cứu người làm trọng Là nhà thơ ông quan tâm đến việc dùng văn chương giúp người hướng thiện, đạo lý làm người + Là gương sáng ngời lòng yêu nước tinh thần bất khuất chống ngoại xâm Khi Pháp xâm lược ông nêu cao lập trường kháng chiến, sáng tác thơ văn khích lệ nghĩa sĩ Khi triều đình đầu hàng ông nêu cao khí tiết, từ chối cám dỗ, giữ gìn lối sống => Một nhân cách lớn khiến “kẻ thù phải kính nể” - Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị Truyện Lục Vân Tiên; Dương Từ- Hà Mậu; Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc… II Tác phẩm "Truyện Lục Vân Tiên " 1 Hoàn cảnh đời Đầu năm 50 kỉ 19. Trước thực dân Pháp xâm lược 2 Đặc điểm Là truyện thơ Nôm, gồm 2082 câu thơ lục bát kết cấu theo lối chương hồi dùng để kể, xoay quanh đời nhân vật 3 Tóm tắt truyện 4 Kết cấu * "Truyện LVT" gồm phần- Phần 1 LVT cứu KNN khỏi tay bọn cướp - Phần 2 LVT gặp nạn thần dân cứu giúp - Phần 3 KNN gặp nạn chung thuỷ với LVT - Phần 4 LVT KNN gặp lại Giá trị dung * Giá trị thực Vạch trần ác, xấu XH Chửi thói gian ác, bất công, chửi kẻ tráo trở, bội bạc, phản phúc cha Võ Công, chửi kẻ bất nghĩa, bất nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, chửi bọn người làm ăn bất lương chuyên nghề lừa bịp, bóp nặn nhân dân bọn thầy bói, thầy pháp, bọn lang băm * Giá trị nhân đạo Đề cao đạo lý làm người Mở đầu truyện, NĐC viết Ai mà nghe Trước răn việc dữ, lành dè thân sau Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau Đạo lí làm người thể qua điểm sau - Ca ngợi tình nghĩa người với người Tình cha con, tình vợ chồng, tình bạn bè, tình thương cưu mang ocn người gặp khoá khăn hoan nạn - Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy - Thể khát vọng nhân dân hướng tới lẽ công đời Cái thiện thắng ác, nghĩa thắng gian tà, người tốt hưởng hạnh phúc, kẻ ác bị trừng trị thuật - Mang tính chất để kể nhiều để đọc, để xem nên trọng đến hành động nhân vật miêu tả nội tâm, tính cách nhân vật bộc lộ chủ yếu qua việc làm, lời nói, cử chỉ, khắc hoạ ngoại hình miêu tả nội tâm - Ngôn ngữ thô mộc mang đậm tính địa phương Nam góp phần thể rõ nét tính cách nhân vật - Nghệ thuật k/c, miêu tả hấp dẫn, sinh động + Đặt nhân vật vào tình cụ thể để bộc lộ tính cách qua lời nói, cử chỉ, hành động - Giọng thơ biến đổi linh hoạt, đặc biệt theo lời thoại nhân vật => Dễ ssau vào quần chúng nhân dân biến thành hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian Kể thơ, hát thơ… => Sức truyền bá rộng rãi nội dung, tư tưởng t/p * Hạn chế - Một số từ ngữ thô mộc Còn ép vần ………………………………………………………… - Xem thêm -Xem thêm Giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên, Giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN NGÔ THỊ MỸ HƯƠNG MSSV 6095779 HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ “LỤC VÂN TIÊN” Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn Cán bộ hướng dẫn ThS. GVC. PHAN THỊ MỸ HẰNG ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Giới thiệu Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ “Lục Vân Tiên” Nguyễn Đình Chiểu Truyện thơ “Lục Vân Tiên” Khái quát nhân vật trong tác phẩm văn học Khái niệm về nhân vật văn học Chức năng nhân vật văn học Đặc điểm của hệ thống nhân vật trong một số truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam Nhân vật nhất phiến về tính cách Nhân vật phân tuyến đối lập về tính cách CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ “ LỤC VÂN TIÊN” Nhân vật trong “Lục Vân Tiên” tuân thủ tính cách nhất phiến của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Nôm trung đại Tính cách nhân vật được xây dựng sẵn, cố định Biến cố xảy ra với nhân vật được xây dựng theo ý muốn chủ quan của tác giả Nhân vật trong “Lục Vân Tiên” tuân thủ tính cách đối lập theo tuyến của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam Sự đối lập giữa trung – nịnh Sự đối lập giữa chính – tà Sự đối lập giữa thiện – ác Sự đối lập giữa tốt – xấu CHƯƠNG 3 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ “LỤC VÂN TIÊN” Nghệ thuật giới thiệu nhân vật Ngôn ngữ của người kể chuyện thiệu nhân vật trực tiếp thiệu nhân vật gián tiếp Ngôn ngữ của nhân vật Dùng lời để tự che đậy mà lộ liễu Dùng lời để tự thố lộ mà kín đáo Sự kết hợp giữa hành động nhân vật và hành vi ngôn ngữ Nhân vật nói đi đôi với làm Nhân vật nói ít làm nhiều Nhân vật chỉ làm không nói Nhân vật nói một đường làm một nẻo PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi viết về Nguyễn Đình Chiểu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét “ Trên trời có những những vì sao có những ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy.”[21; tr83]. Nhận định của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khái quát phần nào về cuộc đời cũng như những đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn học miền Nam nói riêng. Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Ông đã có nhiều đóng góp lớn lao cho sự nghiệp phát triển của nền văn học dân tộc. Cuộc đời của ông dù nghiệt ngã nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Đình Chiểu đã đạt được nhiều thành quả, nhưng thành quả lao động xuất sắc nhất của ông là ở ba lĩnh vực nhà văn, nhà giáo đồng thời là một thầy thuốc đầy y đức. Ở ông hội tụ tất cả những phẩm chất của kẻ sĩ lúc bấy giờ đó là “nhân”, “trí”, “dũng”. Có thể thấy rằng, trên cương vị là một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở chỗ khen chê, biểu dương, phê phán, yêu ghét rõ ràng, chính tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt thái độ sống ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tạo ra những tác phẩm truyện thơ Nôm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Đặc biệt với truyện thơ Lục Vân Tiên, thông qua hệ thống nhân vật trong tác phẩm, chúng tôi nhận thấy tác giả đã xây dựng một hệ thống nhân vật rất kì công, hệ thống nhân vật gần gũi với đời sống chúng ta. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu bắt nguồn từ văn hóa dân gian, chính vì thế có sức lôi cuốn người đọc. Nhiều thế hệ đi qua đã từng thuộc nhiều câu thơ trong Lục Vân Tiên, nhân dân kể nhau nghe rồi truyền từ đời này sang đời khác. Một trong những thành công để tạo nên sức hấp dẫn của Lục Vân Tiên là xây dựng thành công “ Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”, với những đặc điểm quen thuộc và gần gũi như những nhân vật của đời sống. Mỗi nhân vật là một tính cách, không trùng lặp, có thể tiêu biểu cho từng loại người trong xã hội. Từ đó tạo nên sự đa dạng trong hệ thống nhân vật của Lục Vân Tiên. Với mong muốn tìm hiểu đặc trưng của “Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”, nhằm khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu trong lĩnh vực giáo dục đạo làm người thông qua từng nhân vật nhưng cũng là những biểu trưng về một thuộc tính nào đó trung – nịnh, chính – tà, thiện – ác, tốt – xấu. “ Những tác phẩm nghệ thuật lớn, thật sự là lớn, khi mà nó vừa tầm với mọi người và được mọi người thông hiểu” Lép Tônxtôi . Nhận định đó thật đúng khi nói về tác phẩm Lục Vân Tiên. Trải qua bao năm tháng, tác phẩm Lục Vân Tiên vẫn tồn tại và để lại một giá trị to lớn cho văn học cũng như cho đời sống. 2. Lịch sử nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu đã hiến dâng cả cuộc đời và sự nghiệp văn chương của mình cho sự nghiệp vì dân, vì nước. Tên tuổi của ông luôn là niềm tự hào của nền văn hóa, văn học dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu được giới nghiên cứu phê bình tập trung tìm hiểu, khảo cứu phê bình trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau. Cho đến nay, nhiều tư liệu đã thống kê được hàng trăm công trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu đã được công bố. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây. Nghiên cứu về truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu cũng đã có hàng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập tới, nhất là nghiên cứu về truyện thơ Lục Vân Tiên – tác phẩm tiêu biểu cho thời kì sáng tác đầu của Nguyễn Đình Chiểu. Tiêu biểu là các tác giả như Nguyễn Lộc, Nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Khiêu, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giàu, Nguyễn Phong Nam. Một số công trình nghiên cứu mang tính bao quát, toàn diện như Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm[21] của Nguyễn Ngọc Thiện Chủ biên. Quyển Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX [12] của Nguyễn Lộc. Quyển Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu[17] của nhiều tác giả. Về “Đặc điểm của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên” có một số bài viết đề cập đến đặc điểm trên, chẳng hạn Quyển Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu[17] của nhiều tác giả có bài viết “ Lục Vân Tiên một tác phẩm đề cao chủ nghĩa yêu nước, cuộc đấu tranh một mất một còn giữa thiện và ác, giữa chính và tà” , tác giả Bảo Định Giang đã đưa ra nhận định“ Nhưng điều đáng chú ý là, tất cả những kẻ tàn nhẫn, xấu xa nhất, những tên vô lại, bọn người lòng heo, dạ chó cuối cùng đều bị trừng phạt. Trái lại, người trung trinh, tiết nghĩa, ăn ở chung thủy và phải đạo đều được sáng danh, được thỏa mãn mơ ước chính đáng của mình.”. Khẳng định rằng “ Trong cuộc đấu tranh một mất, một còn giữa thiện và ác, giữa chính và tà, nhằm nâng cao phẩm giá làm người, Nguyễn Đình Chiểu, với truyện thơ Lục vân Tiên, đã hiến dâng cho đời một tác phẩm có giá trị.” Trong bài viết, tác giả đã khái quát phần nào về hai tuyến đối lập về tính cách trong tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả đã phân tích hai tuyến đối lập giữa thiện và ác, giữa chính và tà. Quyển Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm[21] của Nguyễn Ngọc Thiện Chủ biên có bài viết “ Con đường thơ của Nguyễn Đình Chiểu”, tác giả Nguyễn Huệ Chi đã đưa ra nhận xét về con đường thơ của Nguyễn Đình Chiểu, về tác phẩm Lục Vân Tiên“ Chính vì thế, trong toàn truyện Lục Vân Tiên, các loại nhân vật trung và nịnh hiện lên rõ nét, nhưng cũng có ít nhân vật nào đơn thuần là sự minh họa khô khan của trung hay nịnh. Ta bắt gặp trong đó cả một thế giới đang thực sống. Và cái làm cho ta tách bạch được trắng hay đen giữa cái thế phức tạp ấy, không phải là một ít tiêu chuẩn đạo đức định sẵn, cỨ đem áp dụng là trắng đen khắc nổi bật lên. Cái làm cho ta nhìn thấu ruột gan của các nhân vật, yêu và ghét đúng như quan niệm yêu và ghét của người viết, đó chính là sự bộc trực và chân thành của tình cảm mà tác giả Nguyễn Đình Chiểu dồn vào ngòi bút của mình.”[21; tr623] và “ Rõ ràng, vẫn dưới hình thức mối quan hệ chính tà như trong hầu hết các truyện Nôm, Nguyễn Đình Chiểu đã biết đem một màu sắc mới vào cho câu chuyện, Ông không một chiều tán dương cách nhìn đời cứng nhắc, bất biến. Ông tìm ra mối quan hệ hợp lý giữa cái phần có thể đứng yên và phần biến động, giữa yếu tố đổi thay và yếu tố cần kiên định, ở ngoài xã hội cũng như trong mỗi con người. Nếu không biết dựa chắc vào nhân dân, nắm vững quy luật của đời sống hiện thực, thì khó lòng rút ra kết luận hợp lý như vậy.”[21; tr627]. Tác giả đã phân tích, đưa ra ý kiến của mình, đề cập đến phần nào về tuyến đối lập giữa trung và nịnh, giữa chính và tà. Quyển Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX [12] của Nguyễn Lộc, tác giả đưa ra ý kiến khái quát “ Lối kết cấu này không có gì mới so với phần lớn truyện Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Đáng chú ý trong Lục Vân Tiên là sự đối lập ở đây không phải nói chung giữa hai tuyến nhân vật, mà đối lập trong từng cặp nhân vật một.”[12; tr643]. Ông đã phân tích khá cụ thể về các tuyến đối lập, không chỉ đối lập về tuyến mà còn có sự đối lập giữa các cặp nhân vật. Về “ Nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”, có một số bài viết nghiên cứu, đánh giá về ngôn ngữ của tác phẩm Lục Vân Tiên Quyển Văn học Việt Nam Nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX[12] của Nguyễn Lộc, ông khái quát về ngôn ngữ “ Ngôn ngữ của Lục Vân Tiên hết sức mộc mạc, giản dị, đó là thứ ngôn ngữ vừa kể vừa làm động tác, và nghe kể là hiểu ngay tức khắc.”[12; tr647]. Bài viết đã điểm qua những đặc trưng nổi bật về ngôn ngữ trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Quyển Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm[21] của Nguyễn Ngọc Thiện Chủ biên, bài viết của Xuân Diệu “ Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”, ông đánh giá “ Cao hơn từ ngữ, tôi muốn nói đến ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu. Một ngôn ngữ bình dân, thông dụng, chân thật, thực tế, có cái vị thơm, có cái hương vị văn miền Nam.”. Xuân Diệu đã đưa ra nhận định khá là cụ thể về ngôn ngữ trong truyện Lục Vân Tiên. Với bài“ Văn hóa truyền thống trong truyện Lục Vân Tiên và cuộc sống của tác phẩm”, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, ông đã nghiên cứu và nói đến ngôn ngữ giới thiệu nhân vật “ Lời giới thiệu nhân vật bằng cách xưng tên lại không khác với lối bạch lối xướng trong tuồng.”[21; tr477]. Tác giả phân tích và đưa ra những ý kiến về ngôn ngữ thơ trong Lục Vân Tiên cũng khá là chi tiết và sâu sắc. Nhìn chung, truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được xem xét và nhìn nhận một cách khái quát nhiều phương diện khác nhau về “ Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên” song chỉ dừng lại ở mức độ nhận định về văn bản, thể loại, kết cấu, ngôn ngữ của tác phẩm. Trên đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ Nôm của ông. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có tiếp thu một cách sáng tạo các công trình nghiên cứu có liên quan để hoàn thành đề tài. 3. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi hoàn thành luận văn theo những đề mục định hướng trong đề cương tổng quát nhằm Nêu vài nét chính về Nguyễn Đình Chiểu và Lục Vân Tiên để định hình một cách khái quát về tác giả và tác phẩm. Nhằm xác định rõ hơn và định hướng một cách kỹ thêm về một số vấn đề liên quan đến tính cách nhân vật trong truyện thơ trung đại nói chung và truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng. Bên cạnh đó, hiểu biết sâu sắc hơn về “Đặc điểm của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên” cũng như về “Nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”. Khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu trong việc vận dụng sáng tạo các phương pháp xây dựng nhân vật trong Văn học trung đại vào “Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của đề tài chúng tôi chủ yếu đề cập đến “Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”. Trên cơ sở kế thừa đặc trưng của truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam để làm rõ “ Đặc điểm của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên” và “ Nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”. Tài liệu được dẫn liên quan đến truyện thơ Lục Vân Tiên được sử dụng trong quyển Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm[21] của Nguyễn Ngọc Thiện Chủ biên là chủ yếu, văn bản truyện Lục Vân Tiên[3] do Lại Ngọc Cang Khảo đính và giới thiệu, một số tài liệu khác có liên quan đến tác giả và tác phẩm. Trong khi thực hiện luận văn, chúng tôi cũng sử dụng tài liệu về lí luận văn học, từ điển thuật ngữ, phê bình nghiên cứu văn học như Lí luận văn học[9], Phương Lựu Chủ biên, Từ điển thuật ngữ văn học[10], Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận[18], nhiều tác giả… 5. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu Phương pháp so sánh Dựa vào đặc trưng truyện thơ Nôm trung đại, so sánh với các truyện thơ Nôm khác để thấy những điểm giống và khác, để có thể xác định từng tuyến nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Phương pháp chứng minh Dùng phương pháp chứng minh những câu thơ có liên quan đến từng nhân vật trong các tuyến của truyện thơ Lục Vân Tiên để thấy rõ đặc điểm cơ bản của hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Phương pháp phân tích – tổng hợp Khi đã chứng minh, chúng tôi dùng phương pháp phân tích để làm nổi bật đặc điểm từng nhân vật và làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Sau khi hoàn thành thao tác phân tích, chúng tôi dùng phương pháp tổng hợp để đưa ra nhận định, kết luận về nội dung đã phân tích. Phân loại nhân vật trong Lục Vân Tiên, chúng tôi xác định nhân vật theo các tuyến nhân vật trong hệ thống truyện, sau đó thống kê và nhận xét hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên. Khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài “Hệ thống nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên”, chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ của mình để làm rõ hệ thống nhân vật trong tác phẩm một cách toàn diện và bao quát hơn. Số lượng nhân vật khá phong phú, chúng tôi sẽ phân chia nhân vật thành các tuyến trung – nịnh, chính – tà, thiện – ác, tốt – xấu... Nhằm tìm ra một hệ thống nhân vật chặt chẽ và đầy đủ nhất. Tất cả các phương pháp trên đều góp phần hoàn thiện việc nghiên cứu đề tài một cách hiệu quả nhất. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Giới thiệu Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ “Lục Vân Tiên” Nguyễn Đình Chiểu Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù lấy hiệu là Hối Trai, sinh ngày 1-7-1822 tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất ngày 3-71888 ở làng An Đức, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Thân sinh của ông là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, ông làm Thơ lại văn hàn ty của tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ của ông là bà Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu trải qua nhiều bước thăng trầm, đã phải sống và chịu nhiều khổ đau. Chính những chuỗi ngày ấy đã tác động một cách sâu sắc đến nhận thức của ông. Thời thơ ấu cho đến năm 11, 12 tuổi Nguyễn Đình Chiểu đã được sống và học tập có nền nếp bên cạnh mẹ. Việc nuôi dạy của mẹ đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng sau này của ông. Ông đã chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, những cuộc nổi dậy của đồng bào bị triều đình Huế đàn áp. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định. Chính cuộc nổi dậy này cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Đình Huy phải chạy trốn ra Huế và bị cách chức. Năm 1833, ông theo cha chạy giặc ra Huế, ông được gửi vào gia đình quan Thái phó, hằng ngày vừa lo việc chiêu đãi hầu hạ vừa học tập. Cuộc sống 8 năm của ông ở đây đã giúp ông nhận rõ hơn về sự phức tạp của triều đình, ông cũng đã có điều kiện để tiếp thu văn hóa dân tộc. Năm 1840, ông về lại Gia Định ôn luyện chờ cơ hội để đi thi. Năm Quý Mão 1843 ông ra thi và đỗ tú tài. Năm 1847, ông trở ra Huế để chuẩn bị dự thi năm Kỷ Dậu 1849. Trong lúc này ông nhận được tin mẹ mất, giữa đường về vì quá thương khóc mẹ, lo buồn mà lâm bệnh dẫn đến mù mắt. Ông bị mù và khi trở về nhà lại gặp phải cảnh éo le, chua chát vị hôn thê bội ước, gia đình sa sút...Năm 1851, sau khi mãn tang mẹ, ông mở trường dạy học, làm thầy thuốc và sáng tác văn học. Học trò nghe danh ông đến thọ giáo rất đông, từ đó ông mới nổi danh là Đồ Chiểu, cũng trong thời kì này ông viết truyện Lục Vân Tiên. Một người học trò của ông là Lê Tăng Quýnh, vì nể tài năng và nhân cách, cũng vừa thương cảm cho hoàn cảnh của thầy mình, ông đã đem gả em gái của mình cho ông. Ông lấy vợ vào khoảng năm 1854 là bà Lê Thị Điền người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, quận Cần Giuộc, tỉnh Gia Định. Năm 1859, Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu phải chạy về quê vợ lánh nạn và tiếp tục dạy học. Nguyễn Đình Chiểu dạy học ở Cần Giuộc được ba năm thì quân Pháp tiến đánh, ở đây ông cũng đã sáng tác bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ông chạy về quận Ba Tri Bến Tre ẩn náu và dạy học cho đến cuối đời. Cuộc đời của ông từ khi Pháp xâm lược cũng bước sang trang mới, ông bắt đầu ghi lại những sự kiện lịch sử của đất nước, các tác phẩm của ông gắn liền với những diễn biến lịch sử, ông trở thành nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc. Với Nguyễn Đình Chiểu, sống ở đời quan trọng nhất là đạo làm người, giữ trọn khí tiết, có thể gói gọn trong hai câu thơ “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương” Ngư Tiều y thuật vấn đáp “ Cả cuộc đời, ở lĩnh vực nào Nguyễn Đình Chiểu cũng dốc lòng tâm nguyện đem chí bình sinh thực thi một đạo lớn đạo làm người, một nghĩa lớn phò chính trừ tà” [21; tr17] Sự nghiệp văn chương Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu chia làm hai giai đoạn Giai đoạn đầu là những năm năm mươi của thế kỉ XIX. Ông đã sáng tác hai tập truyện dài là “Lục Vân Tiên” và “Dương Từ - Hà Mậu”. Truyện “Lục Vân Tiên” mang yếu tố tự truyện, điểm nhấn mạnh là nói về đạo làm người. Tác phẩm “Dương Từ - Hà Mậu” thể hiện tinh thần yêu nước thiết tha, ông đã kêu gọi mọi người nhận ra kẻ thù chung, nêu rõ trách nhiệm và bổn phận của mọi người dân, là lời kêu gọi mọi người trở về với chính đạo, tạo ra sức mạnh chống giặc. Giai đoạn này được xem là “thời kì hình thành và khẳng định tư tưởng yêu nước yêu dân, tư tưởng nhân nghĩa coi như một bộ phận của triết lý nhân sinh của ông” [21; tr50] Giai đoạn thứ hai là thời kì kháng chiến chống Pháp. Đây có thể được xem là giai đoạn phát triển và rực rỡ trong sự nghiệp văn chương của ông. Ông sáng tác truyện dài “ Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. Ông viết tác phẩm này khi ông về Ba Tri 1862 , đây là một quyển sách dày viết về nghề thuốc chữa bệnh. Qua câu chuyện của hai nhân vật chính Ngư và Tiều đi tìm thầy học chữa bệnh, không chỉ để chữa bệnh cho dân mà còn là học đạo để cứu đời, cứu nước. Ông tiếp tục biểu dương đạo đức làm người, phản ánh những vấn đề thời sự mà ông luôn quan tâm và cảm thấy đau lòng. Các bài thơ Đường luật, các bài Hịch, Văn tế. Tiêu biểu “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”1861, “ Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định” 1864, “Mười bài thơ điếu Phan Tòng” 1868, “Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh” 1874... “Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù đất Đồng Nai là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng văn học làm vũ khí chiến đấu. Thủ tướng Phạm Văn Đồng ví thơ văn của ông như “ những vì sao có ánh sáng khác thường”, và “ mắt chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng” [21; tr636]. Sự nghiệp văn chương của ông tuy không quá đồ sộ, nhưng đã chứng tỏ được ông là một nhà thơ, nhà giáo, đồng thời là thầy thuốc giỏi, với những đóng góp của ông trong các lĩnh vực, ông xứng đáng là nhà văn hóa lớn của dân tộc ta cuối thế kỉ XIX. Truyện thơ “Lục Vân Tiên” Hoàn cảnh sáng tác Lục Vân Tiên là tác phẩm thơ Nôm được sáng tác trước khi Pháp xâm lược nước ta. Nguyễn Đình Chiểu sinh vào thời loạn lạc, tình đời bị đảo lộn, đạo lý làm người dần đổi khác, khi chứng kiến cảnh đó ông đã cùng với cuộc đời của chính ông mà viết thành truyện Lục Vân Tiên để khuyên răn người đời. Tóm tắt truyện thơ “Lục Vân Tiên” Truyện Lục Vân Tiên gồm 2082 câu thơ lục bát, cốt truyện dựa trên mô - típ thường thấy trong văn học trung đại là Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ. Lục Vân Tiên, nhân vật chính trong truyện. Là một người học trò nghèo, có đức có tài, văn võ song toàn. Trên đường lên kinh đô đi thi Lục Vân Tiên gặp bọn cướp bắt Kiều Nguyệt Nga. Lục Vân Tiên đã đánh tan lũ cướp cứu thoát Kiều Nguyệt Nga. Cuộc gặp gỡ tình cờ đã làm cho hai người co tình cảm và gắn bó với nhau. Sau đó hai người phải xa nhau, Kiều Nguyệt Nga theo cha về sở lỵ, Lục Vân Tiên tiếp tục lên Kinh đi thi. Lục Vân Tiên đã gặp Hớn Minh, Vương Tử Trực là hai người bạn tốt, bên cạnh đó cũng đã gặp hai kẻ xấu Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Hôm sắp vào trường thi thì Lục Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, chàng bỏ thi và trở về nhà chịu tang mẹ. Trên đường về, vì quá đau buồn nên Lục Vân Tiên bị ốm nặng và bị mù cả hai mắt. Trước cơn hoạn nạn đó, Lục Vân Tiên gặp phải tên bạn xấu Trịnh Hâm lập mưu đẩy xuống sông. Lục Vân Tiên may mắn được vợ chồng ông Ngư cứu giúp. Lục Vân Tiên khi đó tìm đến gia đình vợ được đính ước trước khi đi thi là Võ Thể Loan, mong có chỗ nương nhờ để qua cơn hoạn nạn. Nhưng gia đình họ Võ nhẫn tâm bội ước, đem Lục Vân Tiên vứt vào hang Thương Tòng. Lần này, Lục Vân Tiên được ông Tiều cứu thoát, gặp lại Hớn Minh, cả hai đến ở nhờ một ngôi chùa giữa rừng. Kiều Nguyệt Nga từ lúc gặp Lục Vân Tiên không lúc nào quên được người ân nhân đã cứu mình thoát khỏi bọn cướp. Vì thương nhớ Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã họa một bức chân dung của Lục Vân Tiên luôn mang theo bên mình, nàng tự nhủ với lòng sẽ chung thủy với Lục Vân Tiên đến suốt đời. Khi nghe tin Lục Vân Tiên bị nạn, nàng quyết thủ tiết thờ chàng. Trong triều đình, có viên quan Thái sư muốn hỏi Kiều Nguyệt Nga cho con của hắn nhưng bị nàng từ chối. Lúc đó đất nước có giặc Ô Qua xâm chiếm, tên Thái sư bèn nhân cơ hội này trả thù. Hắn tâu vua xin đưa Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Kiều Nguyệt Nga vì thương cha cũng đành phải tuân theo, trên đường đi, nàng nhảy xuống sông tự vẫn để giữ trọn lòng chung thủy với Vân Tiên. Kiều Nguyệt Nga được Phật Quan Âm cứu sống và trôi dạt vào vườn nhà Bùi ông. Bùi ông cùng với con là Bùi Kiệm ra sức dụ dỗ nàng lấy Bùi Kiệm. Kiều Nguyệt Nga tìm cách trốn vào rừng, ở nhà bà lão dệt vải. Lục Vân Tiên về sau được thuốc tiên chữa cho sáng mắt, chàng ra ứng thí và đỗ Trạng nguyên. Được vua cử đi đánh giặc Ô Qua, Lục Vân Tiên đã tiến cử Hớn Minh cùng đi với mình. Lục Vân Tiên đánh tan bọn giặc, trên đường trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Cả hai sum họp hạnh phúc. Những bọn gian ác đều phải đền tội. Khái quát về nhân vật trong tác phẩm văn học Khái niệm nhân vật trong văn học Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con người có tên như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng..., có thể là những người không có tên như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia... hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình - ta trong ca dao.... Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện số lượng hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật... nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người. Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong ất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này “ Vân xem trang trọng khác vời, Khuân trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” Câu 19-26 Gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật. Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Nhân vật văn học luôn hứa hẹn những điều sẽ xảy ra, những điều chưa biết trong quá trình giao tiếp. Đồng thời nhân vật văn học mang tính chất hồi dung của nhân vật nằm trong sự thể hiện của nó. Chức năng của nhân vật trong văn học Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Nhị Độ Mai, Mai Bá Cao đã thể hiện một viên quan chân chính, vì dân vì nước, một con người đề cao trung nghĩa. Đằng sau nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người… Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời anh hùng Núp trong ất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn ất... nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". Đặc điểm của hệ thống nhân vật trong một số truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam Nhân vật nhất phiến về tính cách Các truyện thơ Nôm trung đại đều có nhân vật nhất phiến về tính cách, chúng ta thấy rõ ở một số truyện thơ như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Nhị Độ Mai khuyết danh... Tính cách nhất phiến là tính cách được biểu hiện từ đầu cho đến cuối truyện đều không có gì thay đổi, tốt thì tốt hẳn, xấu thì xấu hẳn, không có sự biến chuyển. “...tất cả những anh hàn sĩ nghèo rớt mồng tơi ấy, nếu “ truy nguyên lý lịch” thì đều xuất thân từ các tầng lớp “cao quý” của xã hội phong kiến, đều là con trời, con quan tể tướng, con quan ngự sử...” [12; tr477]. Tính cách thường thấy ở các nhân vật nam chính là trung quân, có tinh thần hiếu học, là một trang nam tử hán. Lương Sinh trong truyện Hoa Tiên là chàng trai hào hoa phong nhã, có tài và có tình yêu say đắm nồng nàn với Dao Tiên “ Họ Diêu sáng vẻ môn mi, Điềm lành sớm ứng lân nhi một chàng, Húy Phương Châu, tự Diệc Thương, Phong tư điềm giá từ chương toát loài. Mặt hoa tài gấm gồm hai, Đua chân nhảy phượng, sánh vi cưỡi kình.” Câu 15–20 Mai Lương Ngọc trong Nhị Độ Mai là chàng trai cũng được miêu tả là đấng nam nhi với đủ tài, phẩm chất cao quí, cũng có một tấm lòng vì người mình yêu “... Trời cho văn tử đáng tài trạng nguyên. Đặt tên Lương Ngọc dõi truyền, Thông minh rất mực phương tiên trên đời.” Câu 22-24 Kim Trọng trong Truyện Kiều chàng Kim thì đầy đủ phẩm chất của một bậc anh tài, là một mẫu người điển hình mà mọi người ao ước “ Họ Kim tên Trọng, vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu, bậc tài danh, Văn chương nết đất, thông minh tính trời. Phong tư tài mạo tót vời, Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.” Câu 148-152 “ Như một thông lệ, trong các truyện Nôm Việt Nam, nhân vật phụ nữ chính diện thường được giới thiệu đẹp và có tài. Tài và sắc thường là công thức để diễn tả nhân vật phụ nữ chính diện mà nhiều nhà thơ không cần băn khoăn gì về nội dung của nó”[12; tr347] Tính cách ở các nhân vật nữ chính là những phẩm chất cao quí với đầy đủ công dung ngôn hạnh, chung thủy với tình yêu, thảo kính cha mẹ. Dao Tiên trong truyện Hoa Tiên được miêu tả có một tài sắc vẹn toàn, biết bao đấng nam nhi đã phải say mê tài sắc của nàng Dao Tiên “ Dao Tiên một tỉnh tiếng bay, Phỏng chừng đôi tám, xuân nay chưa nhiều. Vẹn lo khung dệt, bàn thêu, Chữ đề thiếp Tuyết, cầm treo phả đồng. Chiều thanh, vẻ lịch càng nồng, Thuyền quyên đáng mặt anh hùng nát gan. Lắng nghe riêng những bàn hoàn, Trước tòa đứng sững, bên màn ngồi quên.” Câu 105-202 Ngọc Khanh cũng không kém gì Dao Tiên về sắc cũng như về tài, mỗi người là mỗi vẻ đẹp khác nhau “ Họ Lưu một gái tên là Ngọc Khanh. Tuần mười lẻ bảy xuân xanh, Người trang trọng, nết đoan trinh vẹn mười.” Câu 850-852 Hạnh Nguyên trong Nhị Độ Mai, nàng là một người con gái đẹp, có tài, tính tình nết na thùy mị, hiếu thảo với cha mẹ của mình " Tiểu thư cất bút vâng lời, Bên tường cũng vịnh một bài nối sau. Khen tài nhả ngọc phun châu, Ba vần già dặn, bốn câu thanh kỳ." Câu 789-792 " Có chi ra phận má hồng, Khôn đem chữ hiếu, đền công chũa cù." Câu 946-958 “ Rằng con chút phận nữ hài, Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên. Môn mi mong những nhờ duyên, Ngỡ đem tất cỏ báo đền ba xuân. Hiểm thay trước kẻ gian thần, Xui nên kẻ Tấn người Tần như không.” Câu 947-952 Thúy Vân trong Truyện Kiều có một chân dung thật đẹp, có sự nghiêm trang, đúng đắn. Một sắc đẹp có thể nói là không thể chê vào đâu được “ Vân xem trang trọng khác vời, Khuân trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.” Câu 19-22 Một số nhân vật phụ trong truyện thơ Nôm trung đại cũng đều mang những tính cách giống nhau. Hỉ đồng trong Nhị Độ Mai trung thành với chủ, quyên sinh để chủ có cơ hội sống “ Trong mình sẵn gói tì sương, Giở ra nuốt ực quyết đường quyên sinh. Nghĩ người con trẻ thương tình, Nghĩa thầy tớ nặng thân mình xem không.” Câu 562-566 Các nhân vật phản diện là những tên gian thần, âm mưu hãm hại người lành. Lư Kỷ, Hoàng Tung trong Nhị Độ Mai, Hồ Tôn Hiến trong Truyện Kiều. Hồ Tôn Hiến đại diện cho thế lực hắc ám, là viên quan ti tiện, không giúp cho dân mà còn ỷ quyền hà hiếp nhân dân, thể hiện bức tranh đen tối về bộ mặt quan lại đương thời “Năm năm hừng cứ một phương hải tần. Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiên nghi bát liễu, việc ngoài đổng nhung.” Câu 2450-2454 Tóm lại, các nhân vật trong một số truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam đều có sự nhất phiến về tính cách, là một đặc điểm mà chúng ta thường thấy trong nền văn học thơ Nôm trung đại. Nhân vật phân tuyến đối lập về tính cách Đối lập về tính cách là những nhân vật trong truyện có những tính cách đối lập nhau giữa tốt – xấu, thiện – ác... Dựa vào các cốt truyện cũng như hệ thống nhân vật thường thấy trong truyện thơ Nôm trung đại mà chúng ta có thể thấy rõ được sự phân tuyến đối lập về tính cách ấy. Đặc điểm này chúng ta nhận thấy rõ nét trong các truyện thơ Nôm trung đại. Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự có các cặp đối lập nhau về tính cách. Chẳng hạn. Lương sinh đối lập với Diêu sinh. Lương sinh thì rụt rè hèn yếu trong truyện tình yêu với Dao Tiên, có những lúc chàng đắn đo về con đường công danh sự nghiệp, về nghĩa tình với Dao Tiên, không mạnh dạn quyết định mọi việc “ Sinh rằng Chút nghĩa tri dao, Chưa sum họp đã nỡ nào chia phôi. Dắt tơ nay mới vâng lời, Đành hay người định thì trời cũng theo. Sớm khuya gác gấm buồng thêu, Ngọc vàng mình phải nâng niu lấy mình. Rầy mai lá thắm chim xanh, Quả mai chi để trên cành bẩy ba. Tình xa bao quản người xa, Tương tri có thế mới là tương tri.” Câu 904-912 “Về dinh ngẫm nghĩ việc nhà Đành người có nghĩa sao ta vô tình? Bến Tương việc hãy rành rành, Nào ai kết cỏ ngậm vành chi đâu? Vì ai cho thiệt thòi nhau? Dễ ai dứt được mối sầu cho đan? Chưa cầm sắt, cũng tao khang, Nối dây thế chẳng vội vàng lắm ru? Mai sau chín suối thấy nhau, Cậy ai đổi lấy mặt đâu với người? Duyên kia trót đã nặng lời, Kiếp trời trong mấy thu trời quản đâu.” Câu 1643-1654 Diêu sinh lại khác, chàng quả quyết trong mọi chuyện, chàng đã khuyên Lương sinh rất phù hợp với đạo lý ở đời, nhờ đó mà Lương sinh quyết định mọi việc dễ dàng, đúng đắn “ Thôi thôi anh đã lầm rồi! Chấp kinh thế chẳng ra hơi trần trần. Tình phu phụ, nghĩa quân thân. Trong tam cương ấy xem phần nào hơn? Tôi con một phận thờn bơn, Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy. Băn khoăn thung cỗi huyên gầy, Tấm lòng hữu thất đến rầy chưa nguôi. Mặc người tựa cửa hôm mai,
Nguyễn Đình Chiểu và truyện Lục Vân Tiên Đề bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Đình Chiểu và truyện Lục Vân Tiên. Bài làm Nguyễn Đình Chiểu có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống và cống hiến cho đời rất mãnh liệt. Ở tuổi đôi mươi, ông bước vào đời hăm hở và đầy khát vọng như chàng trai Lục Vân Tiên buổi lên kinh ứng thí Chí lăm bắn nhạn ven mây, Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa. Làm trai trong cõi người ta, Trước lo báo bổ, sau là hiển vang. Nhưng bất hạnh đã dồn dập ập đến mới mười sáu tuổi mà ông đã lâm vào cảnh đui mù, tàn tật. Thế là đường công danh nghẽn lối, tình duyên đứt đoạn. Ông lần tìm về đến quê nhà thì lại gặp buổi loạn li. Tiếp đó là những ngày cùng gia đình lao đao chạy giặc. Ông căm uất trước cảnh giang sơn bốn chia năm xé, đau lòng trước tình cảnh khôn khó, lầm than của dân chúng. Bão táp cuộc đời không ngừng vùi dập, xô đẩy nhưng Nguyễn Đình Chiểu không gục ngã trước số phận. Ông vẫn ngẩng cao đầu mà sống có ích cho dân, cho nước đến hơi thở cuối cùng. Nguyễn Đình Chiểu can đảm ghé vai gánh vác một lúc cả ba trọng trách của thầy giáo, thầy thuốc và nhà thơ. Ở cương vị nào ông cùng cống hiến hết mình và nêu gương sáng cho đời. Là một thầy giáo, danh tiếng cụ Đồ Chiểu vang khắp miền Lục tĩnh. Một hình ảnh cảm động còn lưu truyền mãi trong dân gian là khi ông mất, cả cánh đồng Ba Tri rợp trắng khăn tang của các thế hệ học trò và của những người dân mến mộ tài đức của ông. Là một thầy thuốc, ông không tiếc công sức cứu nhân độ thế Giúp đời chẳng vụ tiếng danh, Chẳng màng cửa lợi, chẳng ganh ghẻ tài. Ngư Tiều y thuật vấn đáp Nguyễn Đình Chiểu và truyện Lục Vân Tiên Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao trang thơ bất hủ, được lưu truyền rộng rãi như Truyện Lục Vân Tiên, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp… Nguyễn Đình Chiểu có lòng yêu nước thiết tha và tinh thần bất khuất hiếm có. Mặc dầu mù loà, bệnh tật, gia cảnh thanh bần, nhưng ngay từ những ngày đầu đụng dộ với giặc ngoại xâm, ông đã kiên quyết giữ vững lập trường của mình. Ông làm quân sư cho các lãnh tụ nghĩa quân, đồng thời sáng tác thơ văn để khích lệ tinh thần chiên đấu của nghĩa sĩ. Khi cả Lục tỉnh Nam Kì đã rơi vào tay giặc, ông lánh về sống ở Ba Tri Bến Tre nêu cao khí tiết của con người thua cuộc mà lưng vắn thẳng, đầu vẫn ngẩng cao, ngay kẻ thù cũng phải kính nể. Ông sống nghĩa khí, trong sạch giữa tình yêu thương, kính trọng của đồng bào và Trọn đời một tấm lòng son. Truyện Lục Vân Tiên gồm bốn phần. Tóm tắt nội dung như sau Phần thứ nhất Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyện Nga. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lài đang hoành hành, chàng dà một mình đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ bức hình chàng. Còn Vân Tiên làm xong việc nghĩa, thanh thản ra đi, gặp gỡ và kết bạn với Hớn Minh cũng đang trên đường tới kinh đô ứng thí. Phần thứ 2 Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp. Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường, tiện thể ghé thăm Võ Công, là người đã hứa gả con gái tôn Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực. Tới kinh đô, chàng gặp một số sĩ tử khác là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Suốt đường về, Vân Tiên khóc nhiều nên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó, chàng lại bị cha con Võ Công hãm hại, đem bỏ vào hang núi Thương Tòng. Dược Sơn thần và ông Tiều cứu ra, Vân Tiên may mắn gặp lại bạn hiền là Hớn Minh, vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm càn mà phải bỏ thi, sông lẩn lút trong rừng. Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy, Tử Trực đỗ thủ khoa, đến nhà họ Võ hỏi thầm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muôn gả con gái cho, liền bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt là đồ vô sỉ Võ Công hổ thẹn rồi ốm mà chết. Phần thứ 3 Kiều Nguyệt Nga gặp nạn mà vẫn giữ lòng chung thuỷ. Khi nghe tin Lục Vân Tiên đã chết trên đường trở về quê nhà, Kiều Nguyệt Nga rất đau khổ và thề sẽ thủ tiết suốt đời. Tên Thái sư đương triều ép hỏi nàng làm vợ cho con trai mình không được, nên đem lòng thù oán, tâu vua bắt Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua để tránh nạn binh đao. Thuyền đi tới biên giới Nguyệt Nga mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đã cứu và đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm con trai ông ta lại khăng khăng đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng sống nhờ ở nhà một bà lão dệt vải. Phần thứ 4 Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau. Lục Vân. Tiên ở với Hớn Minh, được Tiên ông cho thuốc thần, mắt sáng lại, liền trở về nhà thăm cha và viếng mộ mẹ. Đến khoa thi sau, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh làm phó tướng cho chàng. Đánh tan giặc, Vân Tiên bị lạc trong rừng sâu, tình cờ đến nhà bà lão hỏi thăm đường và gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu bày hết sự tình với đức vua. Cuối cùng, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc bên nhau. Lục Vận Tiên là truyện thơ Nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, được lưu truyền rộng rãi dưới các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian như kể thơ, nói thơ Vân Tiên, hát Vân Tiên ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Vì tái bản nhiều lần nên truyện có nhiều dị bản, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, thì truyện có tới 2082 câu thơ lục bát. Truyện có cấu trúc theo kiểu chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của các nhân vật chính. Mục đích của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện riày là để truyền dạy đạo lí làm người Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, Dữ răn việc trước, lành dè thân sau. Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Đạo lí đó có thể thâu tóm ở mấy điểm sau Thứ nhất Coi trọng tình nghĩa giữa người với người tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn. Thứ hai Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phố nguy Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò cậu công tử con quan cậy thế cha làm bậy. Thứ ba Thổ hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và nhừng điều tốt dẹp trong cuộc đời qua kết thúc có hậu của truyện là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Vào thời Nguyễn Đình Chiểu sống, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kỉ cương lỏng leo, đạo đức suy vi, xã hội nhiễu nhương… Cho nên, một tác phậm như Vân Tiên đã đáp ứng đầy đủ nguyện vọng và ước mơ công lí của nhân dân. Cũng bởi thế mà sau khi ra đời, truyện đã được nhân dân Nam Bộ nồng nhiệt tiếp nhận Về đặc điểm nghệ thuật, Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm chủ yếu dùng để kể hơn là để đọc nên chú trọng đến hành động của nhân vật nhiều hơn là miêu tả nội tâm, do đó tính cách nhân vật thường bộc lộ qua việc làm, lời nói, cử chỉ. Thái độ ca ngợi hay phê phán của tác giả đều thể hiện qua cách miêu tả nhân vật. Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ và lâu bền trong lòng công chúng, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ. Ngay từ năm 1864, tức là chỉ mười năm sau khi tác phẩm ra đời, một người Pháp đã dịch tác phẩm này ra tiếng Pháp. Điều thôi thúc ông ta làm việc đó chính là hiện tượng đặc biệt mà ông ta được chứng kiến ở Nam Kì Lục tỉnh, cỏ lẽ không có một người chài Lưới hay người lái đò nào lại không ngâm nga vài ba câu Lục Vân Tiên trong khi đưa đẩy mái chèo. Ông ta đánh giá tác phẩm Lục Vân Tiên như là một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người, có cái ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những hình ảnh của cả một dân tộc. Cộ ý kiến cho rằng tác phẩm Lục Vân Tiên có tính chất tự truyện. Giữa tiêu sử của tác giả và nhân vật Lục Vân Tiên có những nét tương đồng, trùng hợp như việc bỏ thi về nhà chịu tang, đau mắt và bị mù, bị bội hôn, về sau gặp được một cuộc hôn nhân tốt đẹp… Tuy vậy vẫn có những khác biệt Lục Vân Tiên được Tiên ông cho thuốc, mắt lại sáng, tiếp tục đi thi, đỗ Trạng nguyên và cầm quân đánh giặc thắng lợi. Còn với Nguyễn Đình Chiểu thì vĩnh viễn là bóng tối. Sự khác biệt đó nói lên ước mơ và khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu mà ông chỉ có thể gửi gắm nó qua nhân vật lí tưởng của mình.
Tác phẩm Lục Vân Tiên. Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác vào cuối thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Truyện Lục Vân Tiên mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường – đạo nghĩa. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam. Mời các bạn cùng theo dõi. – Nguyễn Đình Chiểu 1822 – 1888, tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. – Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi 1843, nhưng 6 năm sau 1849 ông bị mù. – Sau đó, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. – Trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia phong trào kháng chiến cùng các vị lãnh tụ như bàn bạc việc đánh giặc hay sáng tác văn học để khích lệ tinh thần nhân dân. – Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi Nam Kỳ bị giặc chiếm, ông về sống ở Ba Tri Bến Tre. – Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu truyền bá đạo lý làm người và cổ vũ tinh thần yêu nước. – Một số tác phẩm nổi tiếng Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định… Xem thêm cuộc đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu II. Giới thiệu về Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Vân Tiên ghé lại bên đàng, Bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô. Kêu rằng “Bớ đảng hung đồ! Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.” Phong Lai mặt đỏ phừng phừng “Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây. Trước gây việc dữ tại mầy, Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.” Vân Tiên tả đột hữu xông, Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang. Lâu la bốn phía vỡ tan, Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng kịp tay, Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. Dẹp rồi lũ kiến chòm ong, Hỏi “Ai than khóc ở trong xe này?” Thưa rằng “Tôi thiệt người ngay, Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ. Trong xe chật hẹp khôn phô, Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.” Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng “Ta đã trừ dòng lâu la. Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai. Tiểu thư con gái nhà ai, Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ. Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ nầy, Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?” Thưa rằng “Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con này tì tất tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên, Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê. Sai quân đem bức thư về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con đâu dám cãi cha, Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành! Chẳng qua là sự bất bình, Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi. Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. Trước xe quân tử tạm ngồi, Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Chút tôi liễu yếu đào thơ, Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền không có, bạc vàng cũng không. Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.” Vân Tiên nghe nói liền cười “Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Này đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì? Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.” 1. Hoàn cảnh sáng tác – “Truyện Lục Vân Tiên” được sáng tác vào khoảng đầu những năm năm mươi của thế kỉ XIX. – Truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở Nam Kì và Nam Trung Kì. 2. Thể loại – Truyện thơ Nôm. – Có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ nhưng văn bản thường dùng hiện nay có 2082 câu thơ. – Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ 19, truyện có 2082 câu thơ lục bát. – Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện. 3. Tóm tắt Nghe tin triều đình mở khoa thi, Lục Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Sau đó, Vân Tiên lại tiếp tục cuộc hành trình. 4. Giá trị nội dung Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật trung tâm Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na ân tình. Qua đó thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu 5. Đặc sắc nghệ thuật Đoạn trích thành công với thể thơ lục bát dân tộc, nghệ thuật kể chuyện, miêu tả rất giản dị, mộc mạc, giàu màu sắc Nam Bộ – Nội dung Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khí; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu nết na, ân tình. – Nghệ thuật Vận dụng thể thơ dân gian, ngôn ngữ đối thoại độc đáo… 6. Bố cục Gồm 2 phần Phần 1 Từ đầu đến “Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”. Lục Vân Tiên đánh bọn cướp. Phần 2. Còn lại. Lục Vân Tiên cứu được Kiều Nguyệt Nga và cuộc trò chuyện của cả hai. Xem thêm Sơ đồ tư duy về tác giả Nguyễn Đình Chiểu III. Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 1 Mở bài Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm Lục Vân Tiên và đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. 2 Thân bài a. Lục Vân Tiên đánh bại bọn cướp – Tình huống Kiều Nguyệt Nga trên đường bị bọn cướp chặn xe, Lục Vân Tiên tình cờ đi qua thấy vậy liền đến cứu giúp. – Hành động của Lục Vân Tiên “Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” sự nhanh trí, gan dạ của Lục Vân Tiên. Kêu rằng “Bớ đảng hung đồ/Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân” – bản lĩnh của một người quân tử, trước khi ra tay chàng đã nêu rõ lý do là vì chính nghĩa, không phải là hành vi đánh lén. Trận đánh diễn ra cay cấn “bốn phía phủ vây bịt bùng” vô cùng nguy hiểm đối với Lục Vân Tiên. Nhưng chàng vẫn “tả xung hữu đột” chẳng khác nào Triệu Tử phá vòng Dương Dang. => Hình ảnh so sánh Lục Vân Tiên với nhân vật anh hùng Triệu Tử cho thấy sức mạnh, tài năng của nhân vật Lục Vân Tiên. – Kết quả bốn phía vỡ tan, quang gươm giáo tìm đường chạy, thủ lĩnh Phong Lai không kịp trở tay bị Lục Vân Tiên tiêu diệt. b. Lục Vân Tiên gặp và trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga – Khi nghe tiếng khóc ở trong xe, Lục Vân Tiên hỏi “Ai than khóc ở trong xe này?” – Người bên trong trả lời rõ sự tình “Tôi thiệt người ngay/Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”. => Lục Vân Tiên động lòng trước hoàn cảnh của hai cô gái, khẳng định mình đã dẹp yên bọn cướp. – Lục Vân Tiên ngăn không cho hai cô gái ra ngoài “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/Nàng là phận gái ta là phận trai” giữ đúng chuẩn mực đạo đức, nam nữ thụ thụ bất thân. – Lục Vân Tiên hỏi thăm tên tuổi, xuất thân và lý do vì sao gặp nạn trên đường. => Từ ngôn ngữ đến cách nói chuyện thể hiện là một con người có học thức, trọng lễ giáo phong kiến. – Sau khi nghe lời lẽ của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga biết người cứu mình là một nam tử hán, liền kể rõ sự tình Nàng cùng với tì tất tên là Kim Liên, quê ở quận Tây Xuyên, cha là tri phủ miền Hà Khê nhận được bức thư của cha đến đó để định việc hôn nhân. – Kiều Nguyệt Nga còn bộc lộ mong muốn Lục Vân Tiên đi cùng mình đến gặp cha để đền tạ công ơn. => Thể hiện Kiều Nguyệt Nga là một tiểu thư khuê các, là con người biết trước sau, hiếu nghĩa. – Lục Vân Tiên nghe vậy liền cười và từ chối “Làm ơn há dễ trông người trả ơn…/Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. => Thể hiện phương châm sống của một đáng nam nhi thấy việc nghĩa không làm thì không phải là anh hùng. 3. Kết bài Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. IV. Sơ đồ tư duy
Di sản, Danh nhân Việt Nam được UNESCO vinh danh Trong khuôn khổ kỳ họp lần thứ 16 của Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, diễn ra từ ngày 13 đến 18/12/2021 tại Paris, hồ sơ Nghệ thuật Xòe Thái của Việt Nam đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc UNESCO ghi danh là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại cùng với 48 hồ sơ khác. Trước đó, ngày 23/11/2021, UNESCO cũng đã thông qua danh sách các Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 - 2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/ năm mất. Trong Danh sách có hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương vào năm 2022. Sự vinh danh này của UNESCO trở thành động lực để chúng ta cùng khám phá lại các giá trị của di sản và con người Việt Nam. - Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm được đặc biệt yêu thích ở Nam Bộ. Tác phẩm này đi vào tục ngữ, ca dao dân ca, trở thành một loại hình diễn xướng đặc biệt “Nói thơ Vân Tiên”. Từ đó đã được tái sinh trong nhiều loại hình văn nghệ khác Thơ hậu Vân Tiên, Thơ nhại Vân Tiên, tranh Vân Tiên, vọng cổ, cải lương, tuồng, điện ảnh… tạo thành một “trường văn hóa” Lục Vân Tiên. Bài viết này giới thiệu vài nét nổi bật về việc ấy. Lục Vân Tiên là một trong không nhiều tác phẩm mà các nhân vật của nó được lưu truyền trong văn học dân gian. Trong Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc đời Ty Văn hóa và Thông tin Bến Tre xuất bản, 1982 các nhà nghiên cứu đã thu thập được gần 100 câu có nhắc đến tác phẩm hoặc nhân vật trong Lục Vân Tiên. Tranh khắc gỗ về đề tài “Lục Vân Tiên” Lục Vân Tiên trong ca dao dân ca Không chỉ ca dao dân ca Nam Bộ, mà cả Nam Trung Bộ và Thừa Thiên - Huế cũng có. Đây là câu ca ở Nam Trung Bộ Anh đừng than ngắn thở dài Nào ai đã nỡ bỏ ai nên phiền Nói ra về lúc Vân Tiên Chàng mà xa thiếp, thiếp chịu phiền sáu năm. Đây là câu hò mái nhì trong dân ca Bình Trị Thiên Bớ em ơi, em đừng suy nghĩ thiệt hơn Hãy ở như Nguyệt Nga ngày trước, lòng dạ keo sơn chẳng dời. Trong ca dao dân ca, các nhân vật được nhắc đến là Bùi Kiệm “máu dê” Anh đây cũng muốn kết ngãi giao du Anh không phải thằng Bùi Kiệm sao chín mười phần bạn nghi. Thể Loan bội nghĩa, Trịnh Hâm vô nghì, Tử Trực hiền lương…. Nhưng nhiều nhất là Vân Tiên và Nguyệt Nga. Vân Tiên là hiện thân của tình thần nghĩa hiệp, của những gian nguy trong đời và tình yêu hết lòng Kể từ ngày thiếp cách xa chàng Như Vân Tiên lâm bệnh, Nguyệt Nga đi cống Hồ Thiếp xa chàng ruột héo gan khô Hang Thương Tòng chàng dựa, chốn biển hồ thiếp thương. Hay Nhớ tích xưa Vân Tiên võ giỏi văn hay Một tay bẻ gậy đánh rày Phong Lai… Còn Nguyệt Nga là hiện thân của tình yêu chung thủy, sắt son Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn Dạ lại dặn dạ đá nát vàng nhòa Em đây quyết noi gương chị Nguyệt Nga Mặc ai phỉnh dỗ em chẳng sa lời nguyền. Hay Đáng thương chị Nguyệt Nga ngồi biển canh trường Ai mang bức tượng Vân Tiên Thấy em là gái thuyền quyên Muốn gá tình chồng vợ biết nợ duyên thế nào? Lục Vân Tiên trong sáng tác văn học Nam Bộ Hát dặm giặm Vân Tiên là một loại diễn tấu theo tích truyện Vân Tiên, kết hợp giữa những đoạn kể chuyện, đối đáp của người sáng tác xen dặm vào với những đoạn lấy nguyên văn, hay lấy một số từ trong Lục Vân Tiên. Hiện nay ở Thư viện Quốc gia Pháp còn lưu Thơ Bùi Kiệm dặm của Nguyễn Văn Tròn Nhà in Bảo Tồn của Diệp Văn Kỳ, Sài Gòn, năm 1928. Đây là đoạn mở đầu “Thốt thôi anh Bùi Kiệm bước vào nhà, thấy nàng Nguyệt Nga, lỗ tai chỉ đeo đôi bông, nhận hột, cổ đeo cây kiền vàng chạm, bận cái áo lưỡng đoạn, đội cái khăn lục soạn, bận quần lãnh lưng rút á khiến tâm bào anh Bùi Kiệm chết tê.… Ăn chung để cho con bạn nó làm riêng, chớ bậu thờ làm chi bức tượng của Vân Tiên, đồ ma đồ quỷ ba mươi ngày, bảy mươi bữa mà có linh thiêng điều gì. Nga rằng phận thiếp mà nữ nhi, tôi làm thân con gái mà chữ trinh, chữ tiết, chữ liệt là tôi phải có ghi vào lòng.” Thơ hậu Vân Tiên là viết tiếp truyện Lục Vân Tiên với những sự việc và thế hệ con của các nhân vật trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Loại “hậu” thế này ta thường thấy ở những danh tác Trung Hoa như Hậu Tam Quốc, Hậu Thủy hử, Hậu Hồng lâu mộng. Truyện Kiều cũng có “hậu” là Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Đăng Tuyển. Hiện nay còn đến 3 tác phẩm Hậu Vân Tiên, đó là Hậu Vân Tiên diễn ca của Trần Phong Sắc, Nhà in Văn Viết, in lần thứ nhất 1925. Tái bản 1928. Hậu Vân Tiên của Nguyễn Bá Thời, Nhà in Xưa Nay Nguyễn Háo Vĩnh, in lần thứ nhất, 1932. Tái bản 1933. Hậu Vân Tiên của Cử Hoành Sơn, Nhà in Xưa Nay Nguyễn Háo Vĩnh, in lần thứ nhất, 1933. In lần thứ ba 1937, thứ tư 1939. Hậu Vân Tiên của Trần Phong Sắc nói Lục Vân Tiên có 6 hồi, ông viết tiếp 6 hồi nữa Tây Minh truyện cũ trước bày Sáu hồi đã diễn xưa nay lưu truyền Cuốn này là Hậu Vân Tiên Tiếp theo sáu thứ cho tuyền thỉ chung … 6 hồi ấy viết về con cái của “thế hệ Lục Vân Tiên”, đó là Lục Tường Quang, sau làm vua là Sở Trung Tông con của Vân Tiên tức Sở Cao Tông, Tử Trung trai, Trinh Khiết gái con Tử Trực, Hớn Dõng trai, Huệ Tâm gái con Hớn Minh… đấu tranh với phe gian tà là Tạ Tượng, Tạ Hầu con viên Thái sư Tạ Mãng, Phong Lôi, Phong Điền con Phong Lai, Cốt Tiết con Cốt Đột…Bùi Kiệm vẫn còn sống, nhờ có bằng cử nhân và có tiếng là bạn Tử Trực nên được mời làm quân sư cho Phong Lôi, Phong Điền. Hai tên tướng cướp này lại cưới hai con gái của Thái sư để có thêm vây cánh. Cuộc đấu tranh giữa hai phe chính tà rất gay go, cuối cùng vua Sở diệt được phe tà do viên Thái sư Tạ Mãng đứng đầu, hòa hiếu với Tây Phiên. Hậu Vân Tiên của Nguyễn Bá Thời cũng kể về thế hệ sau của “thế hệ Vân Tiên”. Về cốt truyện, truyện của Nguyễn Bá Thời chịu ảnh hưởng sâu sắc truyện của Trần Phong Sắc, nhưng gọn gàng, chặt chẽ hơn. Hậu Vân Tiên của Cử Hoành Sơn gần như đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trần Phong Sắc, để tạo ra một sáng tác mới hoàn toàn. Không những tên nhân vật, mà tình huống truyện cũng khác. Truyện không chỉ là sân khấu cho thế hệ “hậu Vân Tiên” mà “thế hệ Vân Tiên” vẫn tiếp tục hoạt động. Tích xưa chép rõ khúc nôi Gương nay lưu thế góp lời ngâm nga Vân Tiên chuyện nọ đã qua Quyển này nối “hậu” kể ra đuôi đầu. … “Thơ nhại Vân Tiên” Là nhại theo nhân vật Vân Tiên, thay vì tốt, thì là các thói hư tật xấu. “Thơ nhại Vân Tiên” là loại bài ca khôi hài, tếu táo, chọc cười, nhưng cũng có ý nghĩa châm biếm các thói hư tật xấu trong xã hội như cờ bạc, hút xách... Hiện còn hai bản - Thơ Vân Tiên cờ bạc, người soạn Nguyễn Văn Khỏe, nhà in Xưa Nay Nguyễn Háo Vĩnh, Sài Gòn, in lần thứ nhất, 1932. - Thơ Vân Tiên ghiền, chủ bút et nhà in Xưa Nay Nguyễn Háo Vĩnh, Sài Gòn, in lần thứ ba, 1929. Tác phẩm “nhại” “Lục Vân Tiên” Lục Vân Tiên trong các loại hình nghệ thuật Lục Vân Tiên trong tranh dân gian ở Bắc và Huế Hiện nay còn một số tranh khắc gỗ về Lục Vân Tiên lưu truyền ở miền Bắc theo phong cách tranh Đông Hồ như tranh Vân Tiên - Tiểu đồng tái ngộ, Vân Tiên - Nguyệt Nga đoàn viên. Ở Huế thì có bản truyện tranh màu Vân Tiên cổ tích truyện do Lê Đức Trạch, một họa sĩ của triều đình Huế thực hiện trong khoảng thời gian 1895 -1897 dựa trên bản dịch tiếng Pháp của Abel de Michel năm 1883. Nói thơ Vân Tiên Ở Nam Bộ việc kể chuyện Lục Vân Tiên trong dân gian rất phổ biến. Truyện thơ Nôm chủ yếu được kể, đọc to theo giọng nói cho nhiều người nghe, chứ không phải để đọc, ngâm một mình hay cho người tri kỷ như với Truyện Kiều. Vì thế mới có tên gọi là “Nói thơ”, mà trong Nói thơ thì chủ yếu là Nói thơ Vân Tiên. Về nguồn gốc, Nói thơ xuất phát từ hát sắc bùa, hô bài chòi từ miền Trung vào. Có những nghệ sĩ lang thang làm nghề Nói thơ Vân Tiên. Họ đến đầu chợ, bến đò, hè phố Nói thơ Vân Tiên, đôi khi kết hợp với đàn bầu, hay điệu bộ, làm mê mẩn tâm hồn bao người. Nói thơ Vân Tiên thường thì được đọc ngẫu hứng vào buổi tối, bên ngọn đèn dầu, có khi vừa nói thơ vừa làm việc như đan lưới, lột dừa, chèo ghe. Ô-ba-rê khi giới thiệu Lục Vân Tiên cho công chúng Pháp, ông viết “Truyện thơ Lục Vân Tiên phổ biến trong dân gian đến mức là ở Nam kỳ không có một người đánh cá hay một người lái đò nào không hát một vài câu thơ ấy khi họ chèo thuyền.” Bài ca, Vọng cổ Lục Vân Tiên Lục Vân Tiên được viết lại thành các bài ca vọng cổ. Hiện nay còn 4 tập tư liệu cổ về loại này - Bài ca Lục Vân Tiên mới đặt, sáu thứ, Đặng Thanh Kim, Imprimerie-Librairie Huỳnh Kim Danh, in lần thứ nhứt, Sài Gòn, 1913. Tây Minh Tích xưa truyện đặt rõ ràng Vân Tiên họ Lục tên chàng Quán Đông Thành vốn dòng trâm anh Mấy thu mang niếp theo thầy Đạo truyền bày đủ nghề võ văn. “Vọng cổ Bạc Liêu Nguyệt Nga-Bùi Kiệm vấn đáp”, tác giả Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Văn Cường Chợ Lớn xuất bản, in lần thứ nhất, 1933 - Bài ca Lục Vân Tiên theo điệu cải lương, tác giả Lâm Hoài Nghĩa, Imprimerie Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, 1924. Lâm Hoài Nghĩa dựa theo truyện Lục Vân Tiên tác giả đặt các bài ca “theo điệu cải lương” như Vọng cổ hoài lang Vân Tiên nhớ nhà, Hành vân Vân Tiên tạ thầy, Khổng Minh tọa lầu Vân Tiên hỏi người cõng con, Lưu thủy tẩu mã Vân Tiên hỏi Kim Liên, Tứ đại Nguyệt Nga cùng Vân Tiên nói chuyện… - Vọng cổ Bạc Liêu Vân Tiên gặp Nguyệt Nga, tác giả Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Đình Khương xuất bản, in lần thứ nhất, 1933. - Vọng cổ Bạc Liêu Nguyệt Nga-Bùi Kiệm vấn đáp, tác giả Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Văn Cường Chợ Lớn xuất bản, in lần thứ nhất, 1933. Tuồng Lục Vân Tiên Lục Vân Tiên được chuyển thể thành tuồng, cải lương không ít. Hiện nay còn hai tư liệu cổ là tuồng Lục Vân Tiên ở Nam Bộ từ 1915 và tuồng ở Bắc Bộ năm 1922. - Tuồng Lục Vân Tiên, Huỳnh Văn Ngà tự Long Ẩn, Sài Gòn, Imprimeur-Editeur, 1915, 38 trang. Cuốn thứ nhứt Từ đầu đến đoạn Trịnh Hâm xô Vân Tiên xuống biển. Tuồng cổ, nhưng lời mới, ít dùng từ Hán Việt. - Tuồng Bắc bộ Lục Vân Tiên tuồng, soạn dả Sửa lại và giữ bản quyền Phú Văn Librairie, Hà Nội, Rue du Chanvre 16, 1922, 60 trang chuyển thể toàn bộ truyện Lục Vân Tiên. Tuồng cổ về Lục Vân Tiên Non sông mở mặt, hoa cỏ đậm mầu, đứng nam-nhi trung hiếu làm đầu, đạo phụ-nữ phải dữ câu trinh thục, Đông-Thành-quận có Vân-Tiên họ Lục, nền trâm anh túc phúc lâu dài, nhà thung huyên hai khóm tốt tươi, chàng đôi tám thực người chí-sĩ, du viễn phương rạo tìm sơn thủy, theo Tiên-ông dốc chí học hành, lúc chàng về Kinh-thành ứng cử, bỗng dữa dường gập gỡ Nguyệt-Nga … Vân-Tiên nói Rừng nho rong ruổi, cửa Thánh dựa kề, tôi Lục-vân-Tiên quê ngụ Đông-Thành, theo Sư-trưởng sôi kinh nấu sử, nghe nhà vua có khai khoa thủ sĩ, vào trình thầy để về ứng thí. 'Truyện tranh' 'Lục Vân Tiên' hồi hương sau trăm năm trên đất Pháp Bản thảo tranh Lục Vân Tiên - phát hiện sau 120 năm Phát hiện độc đáo về tranh Lục Vân Tiên Sức sống mạnh mẽ Lục Vân Tiên sau này còn được chuyển thể thành phim cổ trang do Hãng phim truyền hình TFS sản xuất, dài 14 tập mỗi tập 60 phút, do bộ ba đạo diễn Đỗ Phú Hải - Nguyễn Phương Điền - Lê Bảo Trung thực hiện. Năm 2017 Lục Vân Tiên được viết lại thành nhạc kịch Tiên Nga do NSND Năm Châu, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Nguyễn Hồng Nhung viết lời; đạo diễn Thành Lộc. Tác phẩm được UBND trao giải nhất hạng mục sân khấu của giải Văn học - Nghệ thuật 2019. Lục Vân Tiên được xuất bản từ sớm với số lượng rất lớn, được đưa vào sách giáo khoa liên tục trong nhiều thời gian khác nhau, được dịch thuật xuất bản ở nước ngoài và nghiên cứu phê bình rất lâu dài. Đây là vấn đề lớn, là đề tài của bài viết khác. Có thể nói ngoài Truyện Kiều của Nguyễn Du ra, không có tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam nào được yêu thích, truyền tụng, được phóng tác, chuyển thể rộng rãi, tạo thành một “trường văn hóa” như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Điều ấy cho thấy sức sống mạnh mẽ của tác phẩm trong lòng người hâm mộ. PGS-TS Đoàn Lê Giang Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Thể thao & Văn hóa Xuân Nhâm Dần
nghĩa trong tác phẩm lục vân tiên của nguyễn đình chiểu ... tưởng nhân nghĩa cụ Đồ Chiểu Trong Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tập 1, Nhà xuất Hà Nội năm 1997 có nhận định tính cách Nguyễn Đình chiểu thể qua tác phẩm Lục Vân Tiên Tác phẩm Lục Vân Tiên đáp ... CHƯƠNG 2 CHỮ NGHĨA TRONG TÁC PHẨM LỤC VÂN TIÊN Những bậc quân tử mẫu mực trọng nghĩa khinh tài Trong quan hệ hữu .Vân Tiên chàng niên nghĩa hiệp Với Nguyễn Đình Chiểu nghĩa cốt ... người quân tử mẩu mực Trong sáng tác tác giả trung đại không nhắc đến người quân tử Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu, Vân Tiên anh hùng lúc hành động nghĩa, diệt trừ ác, Vân Tiên có tinh thần lạc... 69 2,302 8 GIỚI THIỆU CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “NHỮNG TẤM LÒNG CAO CẢ” pdf ... tác phẩm “ Những lòng cao cả” Hơn kỉ qua, trẻ em hành tinh đọc học tác phẩm ông 2 Tác phẩm “Những lòng cao cả” ét môn đô Ami xi đặt tên cho truyện Tấm lòng XB 1886 tác giả 40 tuổi “Những lòng ... trường, phụ nữ, VHGD II Giới thiệu tác giả, tác phẩm “Những lòng cao cả” Tác giả ét môn đô Ami xi - -thọ 62 tuổi Là nhà hoạt động xã hội, nhà văn hóa, nhà văn lỗi lạc nước ý ... - Các em tiếp xúc với văn thơ trữ tình 22T bao gồm thơ ca dao Tiếp xúc với thể loại tự 9T Tiếp xúc với văn bản, tác phẩm văn chương nghị luận 7T Kịch dân gian 4T Văn nhật dụng 5T Về... 9 1,562 1 Anh chị hãy giới thiệu tác phẩm Truyền kì mạn lục ... sống, Nguyễn Dữ thể rõ thái độ dứt khoát đấu tranh với tất làm cho bị băng hoại Ngoài ba vấn đề Truyền kì mạn lục có nhiều vấn đề khác khiến cho tác phẩm có giá trị nội dung tư tưởng sâu sắc Bao ... riêng nhân dân lao dộng nói chung c Nghệ thuật Thành công tác giả tác phẩm trước hết sáng tạo sở cốt truyện có sẵn Đa phần câu chuyện tác phẩm có nguồn gốc từ dân gian sách người xưa Nguyễn Dữ sưu ... đồng thời bố sung, nhào nặn, chau chuốt, gọt giũa, biên câu chuyện thô sơ, đơn giản trở thành tác phẩm văn học tinh tế giàu ý nghĩa có hiệu nghệ thuật cao Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật kết... 2 393 0 Giới thiệu tác phẩm Những người khốn khổ tổ 2-11C17 ... tính nhân bản +Những người khốn khổ Les Misérables +Thằng gù nhà thờ Đức bà Notre Dame de Paris II .Tác phẩm người khốn khổ 1 .Giới thiệu Những người khốn khổ câu chuyện xã hội nước Pháp ... Victor Hugo viết cho người biên tập rằng "Tôi có niềm tin tác phẩm đỉnh cao, không nói tác phẩm lớn nhất, nghiệp cầm bút mình“ Bức tranh vẽ Cô-dét tác phẩm Những người khốn khổ Victor Hugo Xuất ... Phần 5 GiăngVan –giăng dung Những người khốn khổ xuất năm 1862 Tác phẩm đánh giá tiểu thuyết tiếng văn học giới kỷ 19 Bản thân Những người khốn khổ có nhiều câu chuyện, nhân vật với... 21 2,160 39 giới thiệu tác phẩm Di Chúc của Chủ Tịch Hồ CHí Minh ... Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền lo lắng, răn đe Không phải Di chúc, mà hầu hết tác phẩm Hồ Chí Minh ... nhân dân”, “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt cán có thấm nhuần đạo đức cách mạng không” Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán phải “vừa hồng vừa chuyên” “Hồng” phẩm chất đạo đức cách mạng Người răn ... giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò hệ trẻ thời kỳ cách mạng Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt yêu cầu cho Đảng công tác giáo dục niên xem trách nhiệm Đảng, quan giáo dục, đến đoàn thể... 10 2,933 59 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM - BÚT KÝ TRIẾT HỌC- CỦA ... thức 1- Câu hỏi ôn tập Hoàn cảnh đời ý nghĩa tác phẩm Bút ký triết học“ Lênin? 2- Những định nghiã khác Lênin phép biện chứng tác phẩm Bút ký triết học“? 3- Trong tác phẩm Bút ký triết học“ ... viết khoa học tự nhiên triết học thư viện Xoóc-bon 1909 + Trích tập bút ký “Thống kê nông nghiệp Ao khác” 1913 + Trích Bút ký triết học” 1914 - 1915 + Trích Bút ký chủ nghĩa đế quốc” có ... 13 13 5- Khi bàn phạm trù cụ thể Bản chất - tượng; quy luât; Nội dung - hình thức; Cái riêng - chung; tư tưởng có tính nguyên tắc Lênin tự nghiên cứu lý luận phạm trù tác phẩm Bút ký triết học“... 14 5,205 44 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM -BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN- CỦA ... chất lượng Bài tựa cũ “Chống Đuy Rinh” biện chứng Tr 70-84 xếp tựa vào tác phẩm “Biện chứng tự nhiên” Trong tựa này, vạch tư tưởng sau - Mối quan hệ khoa học tự nhiên triết ... phát triển khoa học tự nhiên tác phẩm “Biện chứng tự nhiên”? 4 Nêu phân tích quan niệm vật chất vận động tác phẩm “Biện chứng tự nhiên”? 5 Nêu phân tích quan niệm nguồn gốc ... biện chứng phép biện chứng vật sáng lập - nêu nội dung phép biện chứng vật Biện chứng khách quan chi phối giới tự nhiên, biện chứng chủ quan tư biện chứng phản ánh biện chứng... 16 2,301 48 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM -CHỐNG ĐUY RINH ĐIIH RING- CỦA ... nghĩa tác phẩm “Chống Đuy Rinh 2Những khái quát tác phẩm “Chống Đuy Rinh phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học? 3Những khái quát tác phẩm ... cửu Trong chương phê phán sai lầm Đuy Rinh đạo đức pháp quyền nêu lên quan niệm lĩnh vực - sai lầm Đuy Rinh gồm + Tách rời tư khỏi ngôn ngữ Đuy Rinh quan niệm ... Đuy Rinh? 5Những phê phán tác phẩm “Chống Đuy Rinh quan niệm Đuy Rinh vận động quan niệm mối quan hệ vật chất vận động, vận động đứng im? 6Những quan điểm triết học Mác 18 5,314 85 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM -CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN- CỦA ... sau tác phẩm Chủ nghĩa vật chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” nào? 3- Nêu phân tích ba kết luận nhận thức luận mác-xit định nghĩa khoa học vật chất Lênin tác phẩm Chủ nghĩa vật chủ nghĩa kinh nghiệm ... cứu tác phẩm Người Chủ nghĩa vật Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” a Phải đối chiếu nguyên tắc lý luận chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán với chủ nghĩa vật biện chứng để vạch chất phản động chủ nghĩa ... nghiệm phê phán”? 4- Lênin phê phán chủ nghĩa tâm chủ quan chủ nghĩa Makhơ vấn đề có liên quan đến lĩnh vực xã hội nêu lên tính đảng triết học tác phẩm Chủ nghĩa vật chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”... 17 8,347 98 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM HỆ -TƯ TƯỞNG ĐỨC- CỦA VÀ ... dung triết học tác phẩm Hệ tư tưởng Đức”? 2- Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức”, phê phán hạn chế phái Hêghen trẻ nào? 3- Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức”, rõ chủ ... sử tác phẩm Hệ tư tưởng Đức” gì? 5- Những nội dung quan niệm vật lịch sử tác phẩm Hệ tư tưởng Đức” gì? 6- Nêu phân tích bốn kết luận quan trọng ... tác phẩm Hệ tư tưởng Đức” II Bố cục tác phẩm Tái 10 / 1986 - I Phơ bách Sự đối lập quan điểm vật tâm Trang -9 261 263 - Phơ bách A Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói... 14 4,757 79 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ... Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền lo lắng, răn đe Không phải Di chúc, mà hầu hết tác phẩm Hồ Chí Minh ... nhân dân”, “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt cán có thấm nhuần đạo đức cách mạng không” Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán phải “vừa hồng vừa chuyên” “Hồng” phẩm chất đạo đức cách mạng Người răn ... giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò hệ trẻ thời kỳ cách mạng Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt yêu cầu cho Đảng công tác giáo dục niên xem trách nhiệm Đảng, quan giáo dục, đến đoàn thể... 10 1,509 9 Xem thêm
giới thiệu tác phẩm lục vân tiên