MS114 - Phân tích hai khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận Dàn ý chi tiết 1. Mở bài - giới thiệu tác giả, tác phẩm: +được nhà nước - Tham khảo bài viết MS114 - Phân tích hai khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận mới nhất Top 6 Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận) (Ngữ văn 9) hay nhất Huy Cận là nhà thơ trưởng thành từ phong trào Thơ mới và là nhà thơ tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam sau năm 1945. Đề bài: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. "…. Sao mờ, kéo lưới trời sáng. Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẫy bạc đuôi vàng léo rạng đông. Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền Phân tích bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá của nhà thơ Huy Cận; Thuyết minh về Vịnh Hạ Long - Văn mẫu lớp 8; Đóng vai ngư dân kể lại hành trình ra khơi đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận; Những nét chính của trích đoạn Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) 2. Đoạn văn phân tích khổ 2 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, mẫu 2 (Chuẩn) Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận không chỉ dựng lên khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ mà còn ngợi ca vẻ đẹp, sự trù phú của biển cả. Điều này được thể hiện tập trung Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận Hướng dẫn 1. Mở bài: • Sau hòa bình lập lại (1955) miền Bắc bước vào công cuộc xậy dựng xã hội chủ nghĩa với khí - Khám phá bài viết Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận chi tiết. Phân tích khổ thơ cuối của bài fre6. Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cáPhân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá - Khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá chính là sự ca ngợi về sự giàu có của biển cả và tinh thần lao động hăng say của người dân. Sau đây là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá, phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 2 hay và chi tiết sẽ là tài liệu tham khảo Ngữ văn 9 cho các bạn học thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ về biển cả cũng như ca ngợi tinh thần lao động hăng say của nhân dân trong thời kỳ đổi Dàn ý phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá1. Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận những nét khái quát về cuộc đời, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...- Giới thiệu khái quát về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...- Giới thiệu vấn đề phân tích khổ 2 bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá".2. Thân bài- Hai câu thơ đầu+ "Hát rằng" gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.+ Thủ pháp liệt kê "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển Câu thơ "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng"+ "Đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục.+ Không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông.+ Gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.+ Thể hiện được không khí lao động hăng say của người lao động- Câu thơ kết thúc khổ thơ+ Câu thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá+ Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng Kết bàiKhái quát những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ và nêu cảm nhận của bản Phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cáHuy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viếtHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoiTừ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý ngày dệt biển muôn luồng sángTừ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng Phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 2Huy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viếtHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoiTừ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý ngày dệt biển muôn luồng sángTừ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng chài.+4. Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cáPhân tích cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi 2 khổ đầuMở bàiHuy Cận là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau cách mạng, thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trong cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận sau cách mạng. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở 2 khổ đầu bài bài1. Hoàn cảnh sáng tácGiữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Chuyến đi này đã khiến hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian đó và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”1958.2. Phân tíchMở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then,đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu. Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”.Phép tu từ so sánh “mặt trời xuống biển – hòn lửa”, mặt trời như một quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Bức tranh hoàng hôn mang một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp. Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư nhiên vũ trụ là nền cho con người xuất hiện“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió thơ đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng hái, tươi vui của những con người lao động “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng/Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”. Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động quen thuộc, hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” diễn tả tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền lao nhanh ra khơi xa. Tiếng hát làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi“ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”Bằng những liên tưởng thực tế kết hợp với phép so sánh “cá thu – đoàn thoi” khiến người đọc hình dung hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, “đến dệt lưới ta”. Từ ” ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái” ta” tập thể đầy sức Đánh giá, khái quátVới việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, cùng những phép so sánh, nhân hóa, hai khổ thơ đầu đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống bàiĐoạn thơ là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Đọc những dòng thơ, độc giả như. cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của khảo thêmTop 10 bài phân tích Chuyện người con gái Nam Xương hay chọn lọc Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọnTop 8 bài cảm nhận Đoàn thuyền đánh cá hay chọn lọc Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cáTop 8 bài phân tích Đoàn thuyền đánh cá hay nhất Phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá ngắn nhấtNêu cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh Nêu cảm nhận của em về phong cách của Bác đoạn vănTop 9 bài tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn Tóm tắt vb Người con gái Nam XươngTop 10 mẫu đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay Hóa thân Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️ 13 Bài Văn Hay ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Huy Cận. Dàn Ý Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh CáMở Bài Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Khổ 2Kết Bài Phân Tích Đoạn 2 Bài Đoàn Thuyền Đánh CáVăn Mẫu Phân Tích Khổ 2 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 1Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất – Mẫu 2Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Gọn – Mẫu 3Phân Tích Đoạn 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Nhất – Mẫu 4Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Nâng Cao – Mẫu 5Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Học Sinh Giỏi – Mẫu 6Bài Phân Tích Khổ 2 Đầu Đoàn Thuyền Đánh Cá Đơn Giản – Mẫu 7Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Facebook – Mẫu 8Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 9Phân Tích Khổ 1 Và 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 10Phân Tích Khổ 1 2 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 11Phân Tích Khổ 2 3 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 12Phân Tích Khổ 1 2 7 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 13 Tham khảo dàn ý phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây sẽ giúp các em học sinh dễ dàng triển khai bài viết theo bố cục cơ bản và những luận điểm chính. bài phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá Giới thiệu khái quát về tác giả Huy thiệu khái quát về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”Nêu vấn đề cần phân tích – khổ 2 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. bài phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá -Hai câu thơ đầu “Hát rằng” gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu” cùng biện pháp so sánh cá thu với “đoàn thoi” dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả. -Câu thơ “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” “Đêm ngày” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau “dệt” nên một tấm lưới với “muôn luồng sáng” giữa biển cả mênh lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh hiện được không khí lao động hăng say của người lao động -Câu thơ kết thúc khổ thơ Câu thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cáẨn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài. bài phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá Khái quát những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ và nêu cảm nhận của bản thân. Tham khảo trọn bộ ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá ☀️ 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Mở Bài Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Khổ 2 Đoạn văn mẫu mở bài phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 2 dưới đây sẽ giúp các em học sinh có cách dẫn dắt giới thiệu vấn đề nghị luận hay. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một khúc ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng, mà trong đó, khổ thơ thứ 2 để lại nhiều ấn tượng với người đọc bởi tiếng hát của người lao động hăng say trong cuộc sống mới. Kết Bài Phân Tích Đoạn 2 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Tham khảo đoạn văn kết bài phân tích đoạn 2 bài Đoàn thuyền đánh cá dưới đây với những nội dung nhận xét tổng kết về đoạn thơ. Trong khổ thơ thứ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá, với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 15 Bài Hay Văn Mẫu Phân Tích Khổ 2 Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 1 Đón đọc văn mẫu phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá dưới đây để có được cho mình những định hướng làm bài cụ thể. Nếu trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” Hoài Thanh thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng – chung, biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hào hứng, phấn khởi. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người ngư dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh thần hăng say trong công việc. Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bài khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ. KHổ thơ thứ 2 là tiếng hát của những con người hăng say, miệt mài lao động không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi! Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông. Biển Đông có rất nhiều cá và đang chờ mọi người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá “đêm ngày dệt biển” ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người. Phương thức nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong đoạn thơ này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, thêm vào đó là lối phóng đại, khoa trương đã đạt được hiệu quả thẩm mĩ và tạo được dấu ấn riêng cho thi phẩm. Bên cạnh đó thì các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần… cũng tạo nên âm hưởng giọng điệu khỏe khoắn, tơi vui, mạnh mẽ… góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp, thật sống động. Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch sử. Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất – Mẫu 2 Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh. Nếu như trước Cách mạng tháng Tám ta bắt gặp một “nỗi sầu vạn cổ” trong “Tràng Giang” của hồn thơ Huy Cận thì sau Cách mạng tháng Tám hồn thơ ảo não, sầu muộn ấy đã đem đến một làn gió vui tươi, mới mẻ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ chính là “khúc tráng ca” hào hùng của ngư dân vùng biển trong cuộc chạy đua với thiên nhiên để sánh ngang tầm với vũ trụ. Huy Cận 1919 – 2005 là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam góp phần đưa phong trào Thơ mới phát triển lên đến đỉnh cao. Ông có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc và có sự thay đổi rõ rệt ở những sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” 1958. Đọc những dòng thơ đầu tiên, ta không khỏi bất ngờ bởi cảnh đoàn thuyền đánh cá tràn đầy khí thế ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên. “Lao động là vinh quang”, công việc đánh bắt cá không chỉ là để phục vụ cuộc sống mưu sinh của người dân vùng biển mà đây còn là niềm vui to lớn của họ khi được hưởng sự ưu ái của thiên nhiên. Họ lạc quan trước sự giàu có của biển cả khi chúng ban tặng cho con người rất nhiều loại khác nhau “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Muốn tìm được kho báu ẩn sâu trong lòng đất thì nhất định chúng ta phải có một niềm tin mãnh liệt vào chúng. Dù bóng tối trên biển cả bao la có bủa vây những ngư dân của chúng ta đi chăng nữa thì ở họ luôn có ánh sáng của niềm tin giúp họ tìm được nhiều cá hơn. Biển Đông dồi dào, giàu tài nguyên và sẵn sàng cho đi với vô vàn loài cá như “cá bạc”, “cá thu”. Tác giả đã vẽ nên một bức tranh có sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá để gợi sự trù phú của thiên nhiên và những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân. Biển cả rộng lớn còn con người thì bé nhỏ như được hòa chung vào cùng một dòng chảy để dệt thành những mẻ lưới đầy ắp cá. Họ tha thiết, mong chờ đàn cá đến “dệt lưới” với lời gợi mời vô cùng thân thiết “đoàn cá ơi!”. Ở khổ thơ thứ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho người đọc một bức tranh sống động bằng những hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng với âm hưởng khỏe khoắn, lạc quan. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một “khúc tráng ca” hào hùng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hân hoan của những người dân vùng biển khiến cho những âm thanh vui tươi ấy vẫn luôn còn đọng mãi trong tâm trí người đọc. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Gọn – Mẫu 3 Bài văn phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách viết súc tích và cô đọng ý văn. Huy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền biển. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viết Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoi Từ “hát rằng” mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê – kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao – “cá bạc”, “cá thu” cùng biện pháp so sánh cá thu với “đoàn thoi” dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả. Thêm vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý nghĩa. Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Từ “đêm ngày” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau “dệt” nên một tấm lưới với “muôn luồng sáng” giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ. Tóm lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng chài. Tiếp theo tham khảo 🌹 Mở Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Đoạn 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Ngắn Nhất – Mẫu 4 Với bài văn phân tích đoạn 2 Đoàn thuyền đánh cá ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp. Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1919, trong một gia đình nông dân nghèo của tỉnh Hà Tĩnh. Ông từng tham gia hoạt động cách mạng trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Huy Cận để lại cho văn học nước nhà khối lượng tác phẩm khá lớn và giá trị. Nếu như trước năm 1945, ông thành công với tập thơ Lửa thiêng thì sau năm 1945, tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng của ông gây được tiếng vang lớn trong văn đàn. Đó là niềm tự hào không chỉ của riêng tác giả mà còn là niềm vui lớn của người đọc khi được thưởng thức những đứa con tinh thần đầy mới mẻ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá trích trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng đã khắc họa những vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn và hình ảnh những người lao động đầy hứng khởi. Đặc biệt hơn cả là bức tranh ra đoàn thuyền đánh cá ngày ra khơi được thể hiện trong khổ thơ thứ 2. Bắt đầu ra khơi bằng câu hát ân tình, câu hát ru màn đêm, ru biển cả, câu hát làm cánh buồm thêm sức sống, thêm căng gió ra khơi. Người lao động cất cao lời hát, con thuyền bắt đầu lướt sóng ra khơi đầy mạnh mẽ, tráng lệ, cảnh và người thống nhất, hài hoà “ Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Trong chiến đấu, câu hát về ước vọng hòa bình vang lên, trong lao động câu hát về vụ mùa bội thu được cất lên thì trong đánh cá lại không thể thiếu những câu hát về tôm cá, về ước mong biển giàu cá tôm. Câu hát của người dân vùng chài mang theo cả lời mời gọi, mời gọi những đoàn cá đang rong ruổi giữa mênh mông nước kia đến dệt lưới, đến đan ánh sáng vào tấm lưới đang miệt mài trong từng luồng nước dưới kia. Người ngư dân mong rằng trời lặng, sóng êm, gặp luồng cá thoi, cá thu thật lớn để đánh bắt được nhiều. ” Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Lời thơ như tiếng hát ngọt ngào, ngân xa, lời thơ đầy ắp những ân tình của con người nơi biển cả, lời thơ đầy ắp cả những hy vọng, ước mong. Chỉ với trọn vẹn 4 câu thơ đầu bài nhưng bằng cảm xúc chân thành, ngôn từ đã diết mà bình dị, giọng điệu khoẻ khoắn, tươi vui, tác giả đã khắc hoạ được cảnh dân chài ra khơi đầy hứng khởi, mang niềm vui và sự tin yêu dạt dào. Qua đoạn thơ, ta thấy được tâm hồn lạc quan, sự làm chủ của người lao động trong cuộc chinh phục thiên nhiên của mình. Dường như mọi người, ai ai cũng ra sức phấn đấu, ra sức lao động để dựng xây đời mới giàu đẹp hơn mỗi ngày. Chia sẻ 🌼 Kết Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Nâng Cao – Mẫu 5 Tham khảo bài văn phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu. Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ “ảo não”, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ông tìm được nguồn sống từ cuộc sống mới của dân tộc và say mê sáng tạo. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm nổi bậc của ông trong giai đoạn này. Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết. Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, lên miền núi, đến với nhà máy, nông trường… Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tác lãng mạn, bay bổng, cảm xúc vũ trụ độc đáo tuôn trào. Thi phẩm đã để lại cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị, những ấn tượng sâu sắc. Nếu khổ thơ mở đầu bài thơ là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá lúc hoàng hôn buông xuống. Thì ở khổ thơ thứ 2, trước khi vũ trụ đi vào lặng lẽ, đoàn thuyền đánh cá căng buồm ra khơi. Nhịp thơ vừa chùng xuống lập tức căng lên theo cách buồm ngược gió “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Từ “lại” cho ta thấy đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ra khơi mà đã rất nhiều lần và trở nên quen thuộc. Một tư thế chủ động mạnh mẽ, đầy tin tưởng trong bài ca lao động tươi vui. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp. Cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh lao động khỏe khoắn. Khung cảnh vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu, hứa hẹn một chuyến ra khơi thắng lợi. Trong câu hát, đoàn thuyền vượt sóng ra khơi, băng mình trên biển cả tìm kiếm những luồng cá. Tiếng hát vang vọng trong đại dương, tràn đầy khí thế “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi”. Biện pháp so sánh đầy hình ảnh kết hợp với lối chơi chữ độc đáo. “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” khiến cho câu thơ nhộn nhịp theo từng đoàn cá chạy. Phép nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” lập tức phá tan vẻ đơn điệu của biển đêm. Huy Cận đã hết sức chú ý đến việc xây dựng hình ảnh đặc sắc cho đoạn thơ nhằm tạo nên sự hài hòa giữa con người và biển cả. Đại dương không còn đáng sợ nữa. Đại dương giờ đây chính là ngôi nhà vĩ đại, là nguồn sống của con người. Lời ca tiếng hát là những ước mơ đẹp, ước mơ về một chuyến đi với những thành quả lao động cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp. Hình ảnh của sự liên tưởng sáng tạo, giàu ý nghĩa; hình ảnh mang chất thơ, thi vị hóa công việc đánh bắt cá nặng nhọc. Câu hát yêu đời, thiết tha, trìu mến, ca ngợi sự giàu đẹp của biển Đông Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam. Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng. Huy Cận đã sử dụng bút pháp lãng mạn đầy chất thơ, ca ngợi và thể hiện tình yêu lao động, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống mới. Thành công của khổ thơ thứ 2 nói riêng và cả bài thơ nói chung còn ở việc Huy Cận xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan của người lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh các ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước “Tập làm chủ, tập làm người xây dựngDám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”Tố Hữu Giới thiệu tuyển tập 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Học Sinh Giỏi – Mẫu 6 Bài văn phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá học sinh giỏi dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương. Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian hoàng hôn-đêm trăng-và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa. Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực “hòn lửa” từ từ lăn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng, như những chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ hòn lửa, cài then đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng Mở đầu tác phẩm, tiếng hát, gió khơi, buồm căng “là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Khổ thơ thứ 2 nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động. Thật vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Nổi bật ở khổ thơ thứ 2 với những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát… cho thấy một hồn thơ đẹp của Huy Cận. Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 💕 10 Mẫu Ngắn Gọn Và Chi Tiết Bài Phân Tích Khổ 2 Đầu Đoàn Thuyền Đánh Cá Đơn Giản – Mẫu 7 Tham khảo bài phân tích khổ 2 đầu Đoàn thuyền đánh cá đơn giản dưới đây với những luận điểm tóm lược ngắn gọn nhất. Đề tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp. Huy Cận mang một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và trở về vào lúc bình minh. Ở khổ thơ mở đầu tác phẩm, với bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Ở khổ thơ thứ 2, câu hát ấy thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp “Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động. Khổ thứ 2 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ 1 Đoàn Thuyền Đánh Cá 💧 14 Bài Văn Hay Phân Tích Khổ 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá Facebook – Mẫu 8 Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá Facebook giúp các em học sinh có thêm tư liệu tham khảo phong phú hơn. Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau cách mạng, thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trong cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận sau cách mạng. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở 2 khổ đầu bài thơ. Những hình ảnh thơ mở đầu đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng hái, tươi vui của những con người lao động “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng / Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”. Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động quen thuộc, hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” diễn tả tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền lao nhanh ra khơi xa. Tiếng hát làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!” Bằng những liên tưởng thực tế kết hợp với phép so sánh “cá thu – đoàn thoi” khiến người đọc hình dung hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, “đến dệt lưới ta”. Từ ” ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái” ta” tập thể đầy sức mạnh. Với việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, cùng những phép so sánh, nhân hóa, hai khổ thơ đầu đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống mới. Đoạn thơ thứ 2 Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Đọc những dòng thơ, độc giả như. cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi sáng. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 12 Bài Văn Hay Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 9 Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá là nội dung nghị luận văn học đặc sắc. Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ thơ 1 2 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây Trước cách mạng tháng tám thơ Huy Cận khắc khoải một nỗi buồn da diết, đó là nỗi buồn rộng lớn, mênh mang, vô định, thế nhưng kể từ sau khi Cách mạng tháng tám thành công, có lẽ hồn thơ Huy Cận đã bắt được một niềm cảm hứng mới, ấy là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang diễn ra hết sức sôi nổi. Ông hăng hái viết những bài thơ về công cuộc lao động không ngừng nghỉ của nhân nhân ta, ca ngợi vẻ đẹp của người lao động, vẻ đẹp của quê hương đất nước. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho thơ ông thời kỳ này ấy là bài Đoàn thuyền đánh cá, trong đó vẻ đẹp của người dân làng chài được Huy Cận miêu tả với vẻ hăng say lao động và tràn đầy sức sống, tựa như một khúc tráng ca trong công cuộc lao động xây dựng đất nước thời kỳ đầu. Huy Cận 1919-2005, quê ở Hà Tĩnh, một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm tập thơ Lửa thiêng. Nguồn cảm hứng chính của Huy Cận là thiên nhiên, vũ trụ và con người, trước cách mạng tháng tám thơ ông giàu chất triết lý và ngập tràn nỗi sầu nhân thế, sau cách mạng thơ ông có sự đổi dời về cảm hứng, ông thường viết về những bài ca lao động và thiên nhiên với giọng điệu vui tươi, hào hứng. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh, chứng kiến cảnh lao động của ngư dân tác giả đã viết nên bài thơ với một niềm hứng khởi. Bài thơ được trích trong tập Trời mỗi ngày lại sáng 1958. “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Ngay từ trong khổ thơ đầu khúc hát lao động đã vang lên đầy náo nức, say mê và hăng hái đã được cất lên. Khung cảnh lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi có nhiều điểm khác biệt, không phải là bình minh tươi sáng, cũng không phải là một buổi trưa đầy nắng, mà lại bắt đầu khi hoàng hôn tắt nắng, vạn vật sắp nghỉ ngơi, thì những ngư dân lại dong buồm ra biển. Cảnh hoàng hôn trên biển không hề u ám, tối tăm mà lại mang một vẻ đẹp yên bình, dưới cái ráng chiều hồng nhạt. Từ xa xa, trên mạn thuyền Huy Cận thấy mặt trời như một viên ngọc đỏ chói đang dần chìm xuống biển, “hòn lửa” mang một vẻ đẹp ấm áp, bừng sáng lên giữa biển khơi bao la, không hề gợi nên nỗi buồn cô tịch. Bên cạnh hình ảnh so sánh, Huy Cận còn sử dụng những hình ảnh nhân hóa đặc sắc “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”, tác giả xem cả vũ trụ tựa như một ngôi nhà mà màn đêm buông xuống chính là cánh cửa, những con sóng chính là cái then cài. Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi, thì con người lại lao vào công cuộc lao động, “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ. Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân. Điều ấy được nhà thơ thể hiện rõ nhất qua câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, tiếng ca của con người hợp sức với ngọn gió biển khơi cùng nhau thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền về khơi xa. Những câu hát thể hiện niềm say mê phấn chấn, lạc quan của con người trong lao động, ngay từ trong những dòng thơ đầu Huy Cận đã tạo ra một không khí lao động hết sức sôi động, say mê, chan chứa niềm vui đó đúng là không khí của những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Những câu hát vui tươi cất lên, đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Huy Cận liệt kê một loạt các loài cá như cá bạc, cá thu như “đoàn thoi”, phần nào thể hiện sự giàu có của biển cả, những đoàn cá ấy đêm ngày “dệt biển” vô cùng nhộn nhịp đông đúc. Thế nên mới có câu thơ thật hay “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”, những ngư dân hát mới một tâm hồn ngập tràn niềm vui và sức sống, niềm trông đợi vào một mẻ lưới đầy, sao cho cá vào “dệt lưới”. Cách xưng hô thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng giản dị, chất phác của người ngư dân trên biển cả, ngày ngày hăng say với công việc lao động. Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca bất tận về công cuộc lao động và chinh phục thiên nhiên biển cả của con người, ở đó ta thấy được không khí sôi nổi, hào hứng và say mê của những con người lao động. Trong 2 khổ thơ mở đầu tác phẩm, với giọng thơ say mê, đầy phấn khởi, từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi Huy Cận đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của người lao động và không khí của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng năm sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc nước ta. Có thể bạn sẽ thích 🍀 Phân Tích 3 Khổ Đầu Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 10 Mẫu Hay Đặc Sắc Nhất Phân Tích Khổ 1 Và 2 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 10 Khi viết phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 1 2, các em học sinh cần nắm vững nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Để hoàn thành tốt đề bài phân tích khổ 1 và 2 Đoàn thuyền đánh cá, các em học sinh có thể tham khảo bài mẫu phân tích khổ 1 2 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây Ra đời vào năm 1958, là kết quả chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ của Huy Cận sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, giàu có mà qua đó còn khắc họa thành công hình ảnh những người lao động mới – những con người dân chài lưới với vẻ tinh thần lao động hào hứng, luôn chan chứa sức sống và tinh thần khỏe khoắn. Hình ảnh những con người lao động mới trong bài thơ được khắc họa trên nền thiên nhiên rộng lớn, bao la và trước hết, họ là những người có tâm hồn phóng khoáng, yêu lao động và luôn có niềm hi vọng, ước mong đánh bắt được nhiều hải sản. Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên miền biển lúc hoàng hôn tuyệt đẹp với việc sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo “mặt trời xuống biển như hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa – “sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên thơ mộng, gần gũi, thân thương ấy, hình ảnh con người dần hiện ra Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi Phụ từ “lại” đã giúp nhấn mạnh ngữ điệu của câu thơ, đồng thời, qua đó gợi lên thế chủ động của con người trước thiên nhiên và hơn thế, nó cho chúng ta thấy rằng công việc ra khơi của những con người nơi đây vẫn lặp đi lặp lại hằng ngày, nó trở thành một công việc quen thuộc đối với những con người nơi đây. Đặc biệt, hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” là một sáng tạo độc đáo, qua đó đã cụ thể hóa niềm vui sướng cùng sự hào hứng của người lao động. Thêm vào đó, với việc sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” đã gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi vào trong những lời ca ấy. Trong tâm trạng hứng khởi khi ra khơi, những người dân chài đã cất lên tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển ca và gửi gắm niềm ước mong của mình. Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi. Với thủ pháp liệt kê cùng biện pháp so sánh, tác giả đã ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển ca. Nhưng hơn hết, qua hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” như đã gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh những người lao động đang làm việc, lao động hăng say không kể ngày đêm giữa biển cả. Đồng thời, câu hát “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” không chỉ như một lời mời gọi những loài cá mà hơn thế nữa, nó còn cho thấy ước muốn đánh bắt được thật nhiều những loài hải sản và những điều đó xét đến cùng là khao khát, là hi vọng được khám phá, chinh phục tự nhiên của những người lao động nơi đây. Tóm lại, với ngòi bút tài hoa, bay bổng cùng cảm hứng về vũ trụ, 2 khổ thơ đầu trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã xây dựng thành công hình tượng người lao động mới với những vẻ đẹp đáng trân quý, với tầm vóc lớn lao trên cái nền thiên nhiên bao la, rộng lớn. Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Khổ 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🔥 10 Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 1 2 3 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 11 Bài văn phân tích khổ 1 2 3 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài. Nhà thơ Huy Cận sinh ra tại một vùng quê nghèo Hà Tĩnh, trong cuộc đời của mình ông đã cống hiến trọn vẹn cho công cuộc chiến đấu của đất nước và dành tình yêu thiết tha cho thơ ca dân tộc. Bởi vậy mà Huy Cận được xem là một tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Nếu trước cách mạng, thơ ông mang nặng nỗi buồn da diết, nỗi sầu nhân thế của những kiếp người nhỏ bé lênh đênh thì sau cách mạng, thơ ông mang sức sống mới với những hy vọng, tin yêu, những cảm quan đẹp đẽ, tích cực hơn với đời sống, đặc biệt với những người dân trong cuộc sống lao động. Bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá” in trong tập ” Trời mỗi ngày lại sáng” là một tác phẩm và thể hiện rõ phong cách thơ ông sau cách mạng. Đoàn thuyền đánh cá được viết nhân một dịp Huy Cận có chuyến đi thực tế ở vùng đất mỏ Quảng Ninh, vào những ngày miền Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây được xem là một bài thơ đầy ánh sáng, đó là ánh sáng của thiên nhiên của vũ trụ bao la, ánh sáng của sự trù phú, thịnh vượng của biển cả, là ánh sáng của niềm tin, của ý chí và nghị lực phi thường bền dẻo của những người lao động. Như một khúc ca khải hoàn về những người dân chài miệt mài lao động, dẫu khó khăn vẫn hăng say trong công việc của mình. “ Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Khi màn đêm dần buông xuống, thiên nhiên cũng nghỉ ngơi sau ngày dài lao động, cũng là lúc những người dân chài ra khơi, công việc thường ngày quen thuộc. Lúc này đây, vũ trụ, biển cả là ngôi nhà thứ hai của họ, dang tay chào đón những con người lao động vượt sóng, vượt gió ra khơi. Cánh buồm căng cùng gió mang theo câu hát tâm tình, câu hát cho bao hy vọng, bao niềm thương của người với biển cả “ Hát rằng cá bạc biển đông lặngCá thu biển đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi” Lời hát cất cao giữa trời biển mênh mông, tiếng hát hào sảng ngợi ca sự giàu có của mẹ biển cũng là khúc hát mời gọi từng đàn cá đến dệt lưới, cầu mong cho một chuyến đi bội thu với trời yên, biển lặng. Trong câu hát gửi gắm tất cả bao nỗi niềm của người dân, sự phấn chấn, hứng khởi và cả những niềm vui lao động trong công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người. Dường như trong những lời ca ấy chất chứa “muôn luồng sáng” tuyệt diệu nhất dệt những làn sóng biển thành muôn vàn điều đẹp đẽ. Một khí thế ra khơi đường hoàng, hăm hở, hứa hẹn một chuyến đi đầy bội thu với đầy ắp những cá tôm trở về. “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng” Giữa biển cả mênh mông, cánh buồm thuyền tuy nhỏ bé nhưng không vì thế mà yếu ớt, bị gió biển làm lụng lay. Bằng sự điều khiển, bằng sức mạnh của người lao động, thuyền và người làm chủ trước thiên nhiên kỳ vĩ. Thuyền bây giờ đây không công nhỏ bé ,đơn độc mà trở nên lớn lao, hài hoà, sánh ngang với vũ trụ bao la. Thuyền lướt băng băng trên từng đợt sóng, lòng người phơi phới hăng say trong công cuộc kiếm tìm những luồng cá của mình. Những người dân chài ra khơi xa, bằng kinh nghiệm của mình, dàn đan những thế trận hiểm nguy lùa cá vào lưới, một công việc chứa đựng những vất vả và cần sự tỉ mỉ, vượt khó, tập trung cao độ. Họ làm việc không ngừng nghỉ và hăng say cho thấy cuộc chinh phục thiên nhiên của những người nghệ sĩ chốn biển cả thật đáng khâm phục. 3 khổ thơ mở đầu tác phẩm đã khắc hoạ một bức tranh đoàn thuyền đánh cá của những người làm động làm chủ cuộc sống mới đầy ý vị và giàu chất suy tưởng. Giọng điệu bài thơ vừa khoẻ khoắn vừa lãng mạn, bay bổng, hào hứng mang đến cho người độc những dòng xúc cảm khó tả, thêm tin yêu cuộc sống, tin yêu những chân giá trị vững bền của đời sống lao động. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ 5 Đoàn Thuyền Đánh Cá 💧 13 Bài Văn Hay Phân Tích Khổ 2 3 4 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 12 Đón đọc bài văn phân tích khổ 2 3 4 Đoàn thuyền đánh cá dưới đây với những ý văn sinh động và giàu hình ảnh. Huy Cận là một nhà thơ của tình yêu cuộc sống tha thiết và say đắm, cũng giống như người bạn thơ gần gũi nhất của ông “Không muốn đi, mãi mãi ở bườn trầu – Chân hóa rễ để hút màu dưới đất” Xuân Diệu. Có khác chăng, một nét thường thấy trong thơ ông là cảm xúc về cuộc sống, về con người luôn gắn bó với cảm xúc về vũ trụ, dường như ông muốn tìm câu trả lời về ý nghĩa, sự tồn sinh của con người trong vũ trụ bao la, huyền bí, khôn cùng. Trong thơ ông trước Cách mạng tháng Tám, cảm nhận đó thật cô đơn, nhỏ bé, lạc long, bơ vơ qua hình ảnh một cành củi khô, những cánh bèo dập dềnh trôi nổi không biết về đâu giữa một không gian “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót – Sông dài, trời rộng bến cô lieu” qua hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa” “Tràng Giang”. Chính Cách mạng tháng Tám kỳ diệu và cuộc sống mới sau Cách mạng đã mang tới cho ông một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin vào con người, con người trong sự giao cảm với đất trời, vũ trụ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của ông là một minh chứng về điều đó. Bài thơ ra đời năm 1958 trong nguồn mạch cảm xúc biết bao thương yêu, về cuộc sống “mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bực tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc, những người thật hào hứng, phấn khởi say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huy hoàng vừa hùng vĩ, đầy sức sống. Trên khung cảnh thật kì vĩ, tráng lệ của một chu kỳ thiên nhiên ấy lại là sự mở đầu “một ngày” lao động mới của con người. Không còn nữa cái cảm nhận từ nghìn xưa về sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước biển cả bí ẩn, chứa đầy sức mạnh tàn phá, hủy diệt vô cùng dữ dội. Tiếng hát của họ là tiếng hát của từng con người chinh phục biển khơi Hát rằng cá bạc biện Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Biển cả thật đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Trong câu thơ thứ nhất, từ “bạc” là một định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá nhiều, phong phú, tạo nên sự giàu có, quý giá của biển. Cái giàu có đó còn được cụ thể hóa ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh so sánh rất đẹp này được xây dựng trên một liên tưởng phong phú của người thi sĩ. Từ đó mới hiểu được hai câu thơ sau những biện pháp nhân hóa rất tinh tế. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quí biển cả quê hương mình, cá đi trên biển, cá dệt biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. “Đến dệt lưới ta” bắt đầu từ đây từ “ta” sẽ vang lên đầy tự hào, kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như những ngày xưa nữa mà lại là cái ta tập thể đầy sức mạnh, trong đó có sự nhân lên đến vô hạn tiềm lực mỗi cá nhân. Dường như đó mới là sức mạnh chính tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền đang lướt giữa trùng khơi Thuyền tai lái gió buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng Đoàn thuyền đánh cá như đi trong sự vây bọc, nâng đỡ của thiên nhiên đầy yêu thương, gắn bó. Biển cả bao la mà êm ả, hiền hòa; gió như người bạn thân thiết lái con thuyền ra khơi gió thổi phồng căng cánh buồm giống như vầng trăng khuyết; trời mây như cũng cao hơn, thoáng đãng hơn, tất cả được nhìn với con mắt chan chứa tình yêu thương của những con người đã giành được quyền làm chủ trời biển quê hương. Cảnh phóng khoáng, thoáng rộng bởi con người sảng khoái tự do. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, kì vĩ bao nhiêu thì càng làm tôn vẻ đẹp của con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ vượt lên cao, sánh ngang trời biển vũ trụ. Đoàn thuyền, hay cũng chính là những con người đi giữa cái bao la, hùng vĩ của biển trời – cảnh thực mà đẹp như trong mơ. Động từ “lướt” cho thấy đoàn thuyền chạy rất nhanh và rất nhẹ nhàng trên mặt biển, nó càng biểu hiện rõ hơn khí thế của những người lao động đang thực sự làm chủ cuộc sống mới. Họ đươc tự do, chủ động tìm đến những vùng biển xa ra đậu dặm xa để thăm dò nơi nào nhiều cá dò bụng biển. Cũng chính tư thế làm chủ khiến họ có được quyết tâm cao độ và khí thế chuẩn bị lao động mạnh mẽ như trong chiến đấu Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Huy Cận không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống. Bài thơ cho tháy ông hiểu biết khá tường tận công việc của những người đánh cá, ông cảm nhận được những gì đang diễn ra trong tâm hồn những người con hồn hậu, bình dị và rất đáng yêu mến ấy. Đoàn thuyền đã tìm đúng “bãi cá” lưới đã buông xuống. Những người đánh cá nghĩ gì trong giây phút đợi chờ ấy? Đây là cảnh thực hay là tưởng tượng? Cá nhụ, cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóeĐêm thở sao lùa nước Hạ Long. Đúng ra ở đây có sự pha trộn cả thực tế và ảo mộng, làm cho biển đêm có vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Họ như đã nhìn thấy cái đuôi cá song quẫy chẳng khác gì mảnh trăng vàng lóe sáng lên mặt biển. Hình ảnh thật nên thơ ấy cùng với cách gọi cá là “em” biểu hiện niềm say me cuộc sống thật hồn nhiên và mãnh liệt của những người đánh cá, và trước hết là của nhà thơ. Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao vẻ đẹp kì diệu của cuộc sống, để cảm thấy nhịp thơ của biển đêm qua những đợt sóng dâng lên và hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào nhau và hình thành con người càng hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung và hình thành con người càng hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung linh ấy. Có thể nói, chính niềm tin yêu nồng nhiệt với cuộc sống mới, với những người lao động mới, chính khả năng suy tưởng sâu sắc, liên tưởng phong phú trong các khổ thơ 2, 3 và 4 đã dẫn tới thành công của Đoàn thuyền đánh cá nói chung. Đây là một trong số không nhiều bài thơ hay về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội đương thời. Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 10 Mẫu Đặc Sắc Nhất Phân Tích Khổ 1 2 7 Đoàn Thuyền Đánh Cá – Mẫu 13 Tham khảo dưới đây bài văn phân tích khổ 1 2 7 Đoàn thuyền đánh cá giúp các em học sinh có những ý tưởng làm bài đặc sắc. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Thơ ông dồi dào cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ, và con người lao động. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, khi bằng bút pháp lãng mạn bay bổng, thi phẩm đã tái hiện sự hài hòa của vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào, niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” quả thực đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Bài thơ có bảy khổ thơ, được triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi, tiếp nối là cảnh đánh cá trên biển và cảnh đoàn thuyền trở về. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi hoàng hôn xuống được tác giả miêu tả sinh động trong hai khổ thơ đầu “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên, hình ảnh “mặt trời” vào cuối ngày, đang từ từ lặn vào dòng biển khơi, dưới sự liên tưởng phong phú của thi sĩ, mặt trời lại được nhân hóa như con người đang xuống biển, được so sánh như “hòn lửa” rực rỡ. Hình ảnh ấy đã gợi ra một không gian lung linh, tráng lệ tuyệt đẹp, mà rất ấm áp, gần gũi với con người. Cùng với “mặt trời”, “sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa thực hiện những hành động “cài then”, “sập cửa” đánh dấu sự chuyển giao giữa ngày và đêm. Đây là những liên tưởng rất thú vị và đặc sắc. Thiên nhiên, vũ trụ như một ngôi nhà khổng lồ, với màn đêm là những cánh cửa đang đóng sập xuống, những con sóng đang chuyển động là chiếc then cài cửa. Lúc ấy, cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Ta có thể dễ dàng thấy một không khí tập thể đầy khí thế và ra khơi là hoạt động thường xuyên diễn ra khi nhà thơ sử dụng hình ảnh “đoàn thuyền” kết hợp từ “lại”. Một không gian đông vui tấp nập đã được gợi ra qua những tiếng hát của người ngư dân làng chài trên biển khơi rộng lớn. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Nhà thơ đã sử dụng phép liệt kê và nghệ thuật so sánh tinh tế ngợi ca sự giàu có của biển cả quê hương đêm ngày, từng đoàn cá đã dệt nên bức tranh tươi đẹp của biển khơi với muôn luồng sáng ngoài biển. Lời thơ đã thể hiện mong muốn công việc đánh cá thu được thành quả tốt đẹp. Tiếng ca trên biển mang theo khao khát chinh phục biển rộng của những người ngư dân nơi đây. Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến, sau một ngày lao động. trên biển tràn ngập âm thanh tiếng hát của những người ngư dân “Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Câu hát vang lên như một điệp khúc suốt từ đầu tới cuối bài thơ, suốt hành trình của người ngư dân. Âm hưởng lời thơ trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn hơn, vút cao bay bổng trong niềm hứng khởi khi tác giả thay chữ “cùng” thành chữ “với”. Tác giả sử dụng bút pháp nhân hóa kết hợp phóng đại khi đặt “đoàn thuyền” sánh ngang, tham gia vào “cuộc đua” với mặt trời. Trong cuộc đua ấy, hình ảnh con người được nâng cao, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ. Đây cũng chính là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi con người về bến, mặt trời cũng bắt đầu một ngày mới. Những tia nắng hồng ban mai khiến mắt cá lấp lánh như những mặt trời nhỏ trải dài bờ biển đến muôn dặm. Bằng lao động, người dân làng chài đã viết nên bài ca chiến thắng, bài ca cuộc đời mới tươi đẹp. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của Huy Cận. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, bay bổng, liên tưởng phong phú, sáng tạo, nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa với vẻ đẹp con người lao động, tạo nên khúc tráng ca hùng tráng, mĩ lệ. Qua các khổ thơ 1, 2 và 7 của tác phẩm, Huy Cận đã thể hiện tấm lòng ca ngợi, niềm tự hào về con người mới, cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp theo đón đọc 🌟 Phân Tích Khổ Cuối Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 12 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận bao gồm hướng dẫn làm bài chi tiết cùng tuyển chọn những bài văn hay nhất phân tích bài thơ. Các em cùng tham khảo để nắm được cách làm phục vụ cho việc học môn Văn lớp 9 nhé!Đề bài Em hãy phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy dẫn làm bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá1. Phân tích đề- Yêu cầu đề bài Phân tích nội dung, nghệ thuật, các chi tiết trong tác phẩm nhằm làm sáng tỏ những tư tưởng tác giả gửi gắm và giá trị của tác phẩm- Phương pháp làm bài sử dụng thao tác phân tích2. Các luận điểm chính cần triển khaiLuận điểm 1 Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con ngườiLuận điểm 2 Cảnh đoàn thuyền đánh trên biểnLuận điểm 3 Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh3. Lập dàn ýI. Mở bàiGiới thiệu tác giả, tác phẩm- Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, có nhiều tác phẩm hay để lại cho nền thi ca Việt Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá viết về vùng biển Quảng Ninh vào năm 1958 – thời kì miền Bắc giành được độc lập, tập trung xây dựng kinh Thân bài1. Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con ngườia, Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi- Thời gian lao động đặc biệt, không gian thiên nhiên hùng vĩ+ Thời gian đêm tối+ Cảnh tượng Mặt trời lúc chiều tà được ví như hòn lửa; sóng biển như then cài còn đường chân trời là cánh cửa giao thoa giữa ngày và đêm.⇒ Không gian hùng vĩ, có chút bí ẩn của đêm tối. Trong không gian đó, con người hiện lên với vẻ đẹp yêu đời, khỏe khoắn, hăng say+ Lại ra khơi sự lặp lại hàng ngày của công việc đánh cá ban đêm.+ Dù đối mặt với màn đêm, biển cả rộng lớn nhưng ngư dân vẫn ca hát, hào hứng ra khơi, thể hiện sự hi vọng vào một chuyến ra khơi bội Sự giàu có, hào phóng, mỹ lệ của biển khơiÔng cha ta đã đúc kết ra câu thành ngữ “Rừng vàng biển bạc”, khổ thơ thứ 2 và thứ 4 của bài đã chứng minh điều này- Sự giàu có của biển Đông cá bạc lấp loáng trên biển, cá thu nhiều “như đoàn thoi”, “dệt biển muôn luồng sáng”.- Các loài cá ngon, quý hiếm được liệt kê với giọng tự hào Cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song.⇒ niềm vui thích trước sự giàu có của biển cả khiến tác giả như reo lên “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”- Vẻ đẹp của biển đêm trăng và sao trời in trên mặt biển bóng trăng “vàng chóe”, biển trời như tấm gương phản chiếu nhau, không gian được mở rộng, tăng thêm sức sống “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”.- Nghệ thuật thủ pháp liệt kê, so sánh như đoàn thoi, đuốc đen hồng, nhân hóa cái đuôi em quẫy, đêm thở tạo nên một bức tranh thiên nhiên sống Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển khổ thơ 3, 5, 6Tác giả cho bạn đọc thấy con tàu đánh cá như tàu chiến, những ngư dân như những người anh hùng trên biển khơi- Hình ảnh mạnh mẽ, hùng tráng con thuyền đi nhanh như “lái gió”, cánh buồm trắng ôm trọn mặt trăng, thuyền đi “giữa mây cao với biển bằng”- Động từ “lướt” cảm giác đi như bay, mạnh mẽ⇒ hình ảnh đẹp, con thuyền đi trên biển như thuyền có phép lạ bay trên Việc đánh cá tài tình và đầy chiến thuật như đánh giặc thuyền ra “dặm xa dò bụng biển”, “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Những công việc được thực hiện một cách hào hứng, vui vẻ ngư dân gõ mạn thuyền cho cá bơi vào lưới, giống như “hát bài ca gọi cá vào”.- Khi bắt đầu ra khơi là ban đêm, lúc “sao mờ”, sắp sáng là thuyền trở về+ Cuộc đánh cá bội thu “kéo xoăn tay chùm cá nặng”.+ Thành quả to lớn, con người lao động hân hoan đàn cá trên thuyền lấp lánh loé sáng dưới ánh rạng đông, ngư dân xếp lưới, căng buồm trở về trong “nắng hồng”.⇒ Ba khổ thơ cho thấy con người luôn có khát vọng chiến thắng, làm chủ thiên nhiên nhưng cũng vô cùng biết ơn thiên nhiên Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi Nghệ thuật ba khổ thơ trên có giọng thơ nhanh, dồn dập thể hiện sự hăng say lao động. Sử dụng nhiều động từ mạnh lái, lướt, gõ, kéo cho thấy hình ảnh khỏe khoắn của người lao động; tính từ chỉ màu sắc vàng, bạc, hồng gợi sự tươi vui, ấm Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minha. Cảnh đoàn thuyền trở vềTác giả sử dụng những hình ảnh giống cảnh đoàn thuyền ra khơi ở khổ 1 câu hát, mặt trời nhưng với những sắc thái mới- Ngư dân vẫn hát cùng gió khơi, bây giờ là khúc ca ăn mừng thành quả của một đêm lao động miệt mài => khổ thơ cuối giống như điệp khúc của một bài hát, tạo cảm giác tuần hoàn về thời gian, về công việc lao động; nhấn mạnh khí thế tâm trạng của những người dân, tinh thần sôi nổi, khẩn trương- Đoàn thuyền vẫn đi thật nhanh, như “chạy đua cùng mặt trời” để về cho kịp phiên chợ buôn bán => biện pháp khoa trương, hình ảnh nhân hóa => con người và vũ trụ chạy đua trong cuốc vận hành vô tận, con người đã mang tầm vóc lớn lao của thiên nhiên vũ trụ trong cuộc chạy đua này và con người đã chiến thắngb, Bình minh trên biển- Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh bình minh” Mặt trời đội biển nhô màu mới” => ẩn dụ táo bạo cho thấy sự tuần hoàn của thời gian, của vũ Hình ảnh “ mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi nhiều liên tưởng như những mặt trời nhỏ bé đang tỏa rạng niềm vui trước thành quả lao động mà con người đã giành được sau một đêm lao động trên biển. => đó là cảnh tượng đẹp huy hoàng giữa bầu tròi và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao Kết bàiTổng kết giá trị bài thơ- Ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động. Thiên nhiên cho con người nhiều của cải, con người cũng cần biết ơn thiên nhiên, con người và thiên nhiên là bạn đồng hành; thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc sống mới, cuộc sống tự do lao Tác giả sử dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc khảo thêm Dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận4. Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá5. Kiến thức bổ sungPhong cách sáng tác của Huy Cận+ Trước cách mạng, hồn thơ ông là một hồn thơ ảo não+ Sau cách mạng, hồn thơ ông có sự biến chuyển tươi vui hơnHoàn cảnh sáng tác của bài thơ Đoàn thuyền đánh cáGiữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”Bài tham khảo phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cáBài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá hay và đạt điểm cao của học sinh chuyên VănHuy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam - một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi.”Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảnh khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa. Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng can đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Phép tu từ hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” chỉ những người ngư dân họ đang bắt đầu một ngày lao động mới. Từ “lại” chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệt mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp“Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng.”Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang “Ra đậu dặm xa dò bụng biển”. Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để thăm dò “bụng biển” đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đang “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.”Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca “gọi cá” vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là hòa đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương“Sao mờ kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng" và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát“Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, "Mặt trời đội biển nhô màu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã khảo thêm chi tiết soạn bài Đoàn thuyền đánh cá để tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ khi phân tíchNghe bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhấtMột số bài văn phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá tuyển chọn qua các kì thi, kiểm traBài mẫu 1Huy Cận là một trong những tên tuổi nổi tiếng của phong trào Thơ Mới, trước cách mạng ông được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Sau cách mạng, với sự giác ngộ lí tưởng của Đảng, Huy Cận đã tìm thấy ánh sáng cho mình, bởi vậy, những vần thờ thời kì sau tràn ngập niềm tin vào con người mới, cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ tài hoa, cho những biến chuyển sau cách mạng của ông. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng biển Quảng Ninh. Tác phẩm được in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng. Bài thơ vẽ lên không khí lao động nhộn nhịp khẩn trương của những ngư đầu tác phẩm là khung cảnh vô cùng huy hoàng, tráng lệ Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa. Hình ảnh so sánh vừa độc đáo lại vừa gần gũi, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, đang dần dần trở về ngôi nhà của mình sau một ngày lao động vất vả. Hình ảnh sóng cài then, đêm sập cửa khiến chúng ta liên tưởng thiên nhiên như một ngôi nhà vĩ đại, khi màn đêm buông xuống từ từ khép cửa, còn những con sóng là chiếc then cài cánh cửa ấy lại. Không gian vũ trụ bao la, rộng lớn mà vẫn vô cùng gần gũi, ấm áp với con thiên nhiên đi vào giấc ngủ cũng chính là lúc con người hăng say lao động, họ bắt đầu một chuyến đi mới, một chuyến chinh phục biển khơi đang chờ đợi họ phía trước Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đoàn thuyền lại ra khơi cho thấy nhịp điệu lao động đều đặn, tuần hoàn của những con người nơi đây. Sau bao nhiêu năm kháng chiến vất vả, con người đã được sống cuộc sống bình yên, hăng say làm việc. Họ lên đường trong không khí hào hứng, khẩn trương, câu hát vang lên rộn rã. Hình ảnh câu hát căng buồm cùng gió khơi đã tái hiện vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui lao động phơi phới của những người dân chài lưới. Đó là câu hát về vẻ đẹp trù phú của biển cả cá bạc, cá thu kết hợp với biện pháp so sánh như đoàn thoi tạo thành một tấm lưới cá khổng lồ, qua đó ca ngợi sự giàu có của biển cả. Những câu hát đó cho thấy niềm vui, niềm lạc quan của những người dân về một vụ mùa bội thu, những khoang thuyền đầy cá. Hai khổ thơ đầu đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ và đầy mơ mộng. Cho thấy tâm hồn tự do, phóng khoáng và yêu lao động của khổ thơ tiếp theo, hình ảnh đoàn thuyền trên biển cả mênh mông được tái hiện chân thực, sinh động. Không gian vũ trụ bao la được mở ra ở nhiều chiều kích khác nhau, đó là chiều cao của bầu trời, của mặt trăng lung linh, tỏa rạng; chiều rộng của mặt biển bao la, bát ngát và chiều sâu của đáy biển với kho tài nguyên phong phú, giàu có. Hệ thống động từ lái, lướt cho thấy tư thế làm chủ của đoàn thuyền trước thiên nhiên rộng lớn, kết hợp với đó là tư thế chủ động Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng, cho chúng ta thấy tầm vóc lớn lao, vĩ đại sánh ngang tầm vũ trụ của những người dân chài cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã phát hiện ra vẻ đẹp trù phú, giàu có của biển khi đêm về. Sử dụng biện pháp liệt kê kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, hàng loạt các loài cá như đang vẫy vùng trước mắt người đọc cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… Hình ảnh những đoàn cá đẹp, lỗng lẫy, với những sắc màu rực rỡ lấp lánh, đen hồng, vàng chóe. Dường như tác giả đã vẽ một bức tranh sơn mài tuyệt mĩ về vẻ đẹp của biển khơi. Biển về đêm không tĩnh lặng mà tràn ngập sức sống, tràn ngập sắc màu. Ở đây ông còn đặc biệt gọi những con cá bằng ngôn từ hết sức thân thương, gần gũi "em", cho thấy cá không còn là đối tượng để đánh bắt mà là đối tượng để con người chinh phục. Biển khơi bao la cũng như một sinh thể sống, ánh trăng, sao lồng vào sóng nước nên khi cá quẫy ta có cảm giác không phải mặt nước đang chuyển động mà là màn đêm đang thở. Con người vui tươi, hăng say, cất lên bài ca thể hiện niềm hạnh phúc ngập tràn. Bài ca ấy là lời biết ơn sâu sắc đến người mẹ biển cả nuôi lớn họ Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Biển bao la mà gần gũi, ấm áp như lòng mẹ. Đằng sau những câu thơ ngập tràn khí thế là niềm vui, niềm hạnh phúc và lòng biết ơn vô hạn của tác giả với bà mẹ thiên lại tấm lòng của bà mẹ biển cả, những đứa con càng hăng say lao động hơn Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng/ Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Thành quả họ đạt được thật xứng đáng với những gì họ bỏ ra, mẻ cá phải kéo xoăn tay gợi lên sự bội thu. Kết thúc một đêm đánh cá thành công, đoàn thuyền trở về trong câu hát, trong cánh buồm no gió và khoang thuyền đầy cá. Bình minh rạng rỡ chào đón họ trở về. Hình ảnh mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi vừa có thể hiểu là ánh sáng bình minh, vừa có thể hiểu là muôn ngàn ánh mắt cá lấp lánh ánh mặt trời. Đoạn thơ cuối mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của những con người làm chủ thiên nhiên đất ngòi bút tràn đầy cảm hứng vũ trụ, vận dụng những hình ảnh thơ phong phú, giọng điệu vui vẻ, hào sảng thể hiện niềm vui, niềm hăng say lao động. Việc sử dụng linh hoạt biện pháp so sánh, nhân hóa, liệt kê,… khiến cho bức tranh biển khơi trở nên giàu có và đẹp đẽ hơn bao giờ thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kì mới. Qua đó tác giả khẳng định sự hồi sinh của thiên nhiên, đất nước và con người sau chiến tranh, họ đứng lên xây dựng cuộc sống mới, ấm no, hạnh phúc.>>> Đọc thêm văn mẫu hay Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca về thiên nhiên và con người lao độngBài mẫu 2Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,... được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian hoàng hôn - đêm trăng - bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực "hòn lửa" từ từ lăn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng, như những chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ hòn lửa, cài then đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượngMặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơiĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một "đoàn thuyền", một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ "lại” trong ý thơ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hòa bình. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió "căng" lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng” là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắnHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi!"Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa "cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long trong đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về ngư trường "dò bụng biển", ngư dân khẩn trương lao vào công việc "dàn đan thế trận lưới vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một "chiến sĩ". Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ "lưới” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốnThuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon nổi tiếng như "chim, thu, nhụ, đé". Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết "Cá thu biển đông như đoàn thoi", ở đây lại miêu tả "Cá nhụ, cá chim cùng cá đé". Con cá song là một nét vẽ tài hoa vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước chan hòa ánh trăng "vàng chóe". Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên nhảy múaCá nhụ, cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ huyền ảo lung linh "Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long", như đưa người đọc đi vào cõi mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy. Sung sướng nhìn đàn cá "dệt lưới", những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng biển. Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản... Biển "như lòng mẹ" đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tìnhBiển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn tay" là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe và đẹp. Cơ man nào khiến cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng."Chùm cá nặng" là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông". Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹpSao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngVẩy bạc đuôi vàng lóe rạng thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trươngĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,Mặt trời đội biển nhô màu rạng đông với hình ảnh "mặt trời đội biển... " nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một "màu mới" bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn "vạn cổ sầu" vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài Đoàn thuyền đánh cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông "một nắng hai sương", những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát... cho thấy một hồn thơ đẹp.» Xem thêmPhân tích vẻ đẹp người lao động trong bài Đoàn thuyền đánh cáCảm nhận về đoạn thơ Thuyền ta … Nuôi lớn đời ta tự buổi nào [ĐỪNG SAO CHÉP] - Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự làm bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá một cách tốt nhất. "Trong cách học, phải lấy tự học làm cố" - Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi đã đc tác giả Huy Cận khắc họa thật ấn tượng qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đọc những câu thơ, ta thấy cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong 1 khung cảnh huy hoàng, tráng lệ ra khơi trong buổi hoàng hôn, “mặt trời xuống biển” rồi mà vẫn còn rực cháy như hòn lửa;sắc đỏ của “hòn lửa” khổng lồ ấy như nhuộm hộng cả 1 vùng biển, vùng trời. Buổi hoàng hôn trên biển vì thế không lặng buồn, hiu hắt mà vừa tươi tắn ôm ấp sự sống vừa kì vĩ tráng lệ. “Mặt trời xuống biển’ cũng là lúc thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn. Để tái hiện lại giây phút ấy, tác giả đã sử dụng phép tu từ nhân hóa và ẩn dụ sóng cài then, đêm sập cửa. Qua những hình ảnh đó ta thấy vũ trụ như 1 ngôi nhà lớn với màn đêm là cánh cửa, những lượn sóng trên biển là then cửa. Hai động từ “cài” then “sập cửa” sử dụng liên tiếp trong 1 câu thơ gợi cảm giác đêm trên biển xuống rất nhanh, bóng tối phút chốc ngập tràn, thiên nhiên vũ trụ sau 1 ngày làm việc đã đến lúc nghỉ ngơi, tắt lửa, đóng cửa, cài then. Và đúng lúc ấy “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Con người ra khơi làm việc tương phản với cảnh nghỉ ngơi của biển cả. Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi cho ta cảm nhận cách ra khơi thật đông vui, hào hứng. Từ “lại” trong câu thơ biểu thị sự lặp lại thường nhật, liên tục cho thấy việc đoàn tuyền ra khơi trong buổi hoàng hôn là 1 công việc bình thường, hàng ngày của những người ngư dân, thật đều đặn mà cũng thật khẩn trương như chạy đua với thời gian. Đồng hành với những người ngư dân không chỉ có đoàn thuyền mà còn có những khúc tráng ca “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Hình ảnh “câu hát căng buồm” là 1 hình ảnh ẩn dụ tuyệt hay, câu hát của những người ngư dân lạc quan, yêu đời, yêu nghề, yêu biển có sức mạnh làm căng cánh buồm, cùng với gió đưa thuyền ra xa. Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Những câu hát khỏe khoắn, say sư hứng khởi vang xa, trải rộng trên mặt biển vừa ngợi ca biển đẹp giàu với “cá bạc biển Đông lặng” “cá thu” “như đoàn thoi” vừa khao khát chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” khiến cho buổi ra khơi đầy khí thế, hứa hẹn 1 ngày thắng lợi. Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Sơ Đồ Tư Duy, Tìm Hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác, Giá Trị Tác Phẩm. Nội Dung Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáVề Nhà Thơ Huy CậnVề Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh CáHoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáÝ Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáGiá Trị Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh CáGiá trị nội dungGiá trị nghệ thuậtBố Cục Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáDàn Ý Đoàn Thuyền Đánh CáSoạn Bài Đoàn Thuyền Đánh CáGiáo Án Đoàn Thuyền Đánh CáSơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay NhấtPhân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Đặc Sắc – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chọn Lọc – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Nổi Bật – Mẫu 3Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiêu Biểu – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Ấn Tượng – Mẫu 5 Đến với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước. Thưởng thức nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá bên dưới nhé. Đoàn thuyền đánh cáTác giả Huy Cận Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Câu hát căng buồm với gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Có thể bạn sẽ cần tác phẩm 🌻Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính🌻 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Về Nhà Thơ Huy Cận Ngay sau đây là những nét chính về nhà thơ Huy Cận. Huy Cận 1919 – 2005, tên đầy đủ là Cù Huy Cận. Quê hương làng Ân Phú, huyện Hương Sơn nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tham gia hoạt động cách mạng và từng giữ nhiều chức vụ cao trong Chính phủ Việt Nam như Bộ trưởng Bộ canh nông đầu tiên, Thứ trưởng sau đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục… Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới. Một số tác phẩm Trước cách mạng tháng 8 Lửa thiêng thơ, 1940, Kinh cầu tự văn xuôi triết lý, 1942, Vũ trụ ca thơ, 1940 -1942. Sau cách mạng tháng 8 Trời mỗi ngày lại sáng thơ, 1958, Đất nở hoa thơ, 1960, Chiến trường gần đến chiến trường xa thơ, 1973, Suy nghĩ về nghệ thuật tiểu luận phê bình, 1980 – 1982… Về Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh Cá Về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá, bài thơ được sáng tác theo thể thơ bảy chữ. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước. Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ. Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌸 Bàn Về Đọc Sách 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cá như sau Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” 1958 Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chia sẻ bạn đọc ý nghĩa nhan đề bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Nhan đề bài thơ gợi ra nhiều ý nghĩa. Trước hết, ta có thể xác định được hình ảnh trung tâm trong bài thơ là đoàn thuyền đánh cá. Đầu tiên “đoàn thuyền” – không chỉ một con thuyền mà là rất nhiều con thuyền cùng nhau ra khơi, để làm công việc lao động quen thuộc với cuộc sống của họ “đánh cá”. Qua hình ảnh này, nhà thơ muốn ca ngợi sự đoàn kết của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên Việt Nam, cũng như bộc lộ tình yêu sâu đậm với quê hương, đất nước. Đừng vội bỏ lỡ phân tích ✨ Những Đứa Trẻ [M. Go-Rơ-Ki] ✨ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích Giá Trị Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh Cá Cùng khám phá các giá trị tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá sau đây. Giá trị nội dung Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Giá trị nghệ thuật Xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng Trí tưởng tượng phong phú. Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo. Bố Cục Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Bố cục bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được chia làm 3 phần Phần 1. Từ đầu đến “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Phần 2. Tiếp theo đến “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển. Phần 3. Còn lại Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về. Xem thêm về phân tích 🌿 Cố Hương [Lỗ Tấn] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật Dàn Ý Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiếp theo là dàn ý Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc. 1. Mở bài Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” Tác giả Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Sau cách mạng, hòa bình lập lại, những trang thơ của ông tràn ngập hơi thở sức sống mới, trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. 2. Thân bài Phân tích hình ảnh đoàn thuyền ra khơi Hình ảnh mặt trời lặn trên mặt biển đỏ rực như hòn than cũng là thời điểm ngư dân bắt tay vào công việc thường ngày. Phân tích vẻ đẹp biển cả trong đêm ra khơi Dưới bút pháp lãng mạn của nhà thơ khung cảnh hiện lên vừa thực, vừa ảo, vẻ đẹp của biển cả đã tạo nên sức mạnh và niềm vui cho người lao động, giúp cho ngư dân có niềm tin chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Phân tích công việc và tinh thần lao động của ngư dân Người ngư dân đi đánh cá cũng như đi đánh trận thực sự, họ thăm dò bãi cá, tìm thế trận để giăng lưới sao cho trúng luồng cá để được bội thu. Cuộc sống của ngư dân đã bao đời gắn liền với biển cả, họ thuộc biển, thuộc bao loài cá. Phân tích hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về Bóng dáng người ngư dân in trên nền trời hồng của rạng đông, họ choãi chân, nghiêng người và dồn hết sức mạnh vào đôi cánh tay kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu. 3. Kết bài Khẳng định giá trị của bài thơ Có thể thấy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi và hào hùng, không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, biển cả mà còn ca ngợi những con người lao động trong thời kì mới, họ gan góc, cần cù và ngày đêm làm giàu cho đất nước. Soạn Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Đừng bỏ qua gợi ý soạn bài Đoàn thuyền đánh cá. 👉Câu 1 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Không gian miêu tả trong bài thơ khoáng đạt, bao la, rộng lớn. Thời gian từ hoàng hôn đến bình minh ngày hôm sau. 👉Câu 2 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 – Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian rộng lớn của vũ trụ, giữa biển khơi bao la, tráng lệ. – Biện pháp nghệ thuật cảm hứng lãng mạn, bay bổng ; liệt kê, so sánh, nhân hóa thể hiện được sự phong phú của các loài cá, vẻ đẹp kì diệu và sự giàu có của biển khơi, hiện lên hình ảnh người lao động mới thật đẹp, thật hăng say, con người hòa quyện với vẻ đẹp thiên nhiên. 👉Câu 3 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Một số hình ảnh đặc sắc – Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn vừa gần gũi với con người Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Nhà thơ so sánh mặt trời như một hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Trời và biển có sự giao hòa trọn vẹn. Mặt biển mênh mông, mát mẻ kia sẽ làm cho “Hòn lửa” mặt trời dịu êm đi. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, có màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian. 👉Câu 4 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 – Đây là khúc ca về lao động, tinh thần làm chủ và niềm vui phơi phới. – Âm hưởng, giọng điệu bài thơ khỏe khoắn, sôi nổi, phơi phới bay bổng. – Các yếu tố góp phần tạo nên âm hưởng bài thơ gieo vần biến hóa, vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền, vần cách… tạo âm vang cho tinh thần lao động. Nhịp thơ có khi đầy sức trẻ, sức lao động, có khi hân hoan những chùm cá nặng. 👉Câu 5 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Trước thiên nhiên và con người lao động, tác giả có một cái nhìn tươi mới, tràn đầy cảm xúc hào hứng. Mỗi hình ảnh thơ đều mang sức sống, mang niềm vui, cuốn theo tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la, hùng vĩ, giàu có vô tận của nhà thơ cánh cửa vũ trụ với hòn lửa mặt trời, cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim,…, người lao động hăng say làm việc. Đây chính là cái nhìn tin tưởng, phấn khởi của nhà thơ trước cuộc đời mới. Cùng cập nhật tác phẩm HOT 💌 Chiếc Lược Ngà 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Giáo Án Đoàn Thuyền Đánh Cá Tham khảo nội dung giáo án Đoàn thuyền đánh cá sau đây. I. Mục tiêu bài học – Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc 1. Kiến thức – HS có những hiểu biết bước đầu về t/g Huy Cận và h/c ra đời của bài thơ. – Bố cục của bài thơ và hình ảnh ng lao động trong thiên nhiên. – Cảm hứng về lao động, đa dạng trước cuộc sống mới, ngôn ngữ tinh tế 2. Kĩ năng – Đoc diễn cảm một t/p thơ hiện đại. Phân tích đc một số chi tiết nghẹ thuật trong bài thơ. 3. Thái độ – Gd ý thức ham học biết yêu thiên nhiên, yêu lao động và tự hào về đất nước, con người lao động. II. Chuẩn bị tài liệu 1. Giáo viên + Soạn bài, đọc các tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng. 2. Học sinh + Đọc trước bài, chuẩn bị bài trả lời câu hỏi đọc hiểu, làm bài tập sách GK III. Tiến trình tổ chức dạy học 1. Ổn định tổ chức * Kiểm diện Sĩ số 9A 9C 2. Kiểm tra – GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh H Hãy nêu những cảm nhận của em về hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong bài “Bài thơ về tiểu độ xe không kính”? 3. Bài mới – Đoàn thuyền đánh cá là 1 bài thơ đặc sắc trong chùm thơ của Huy Cận viết về vùng trời, vùng mỏ, vùng biển Quảng Ninh- Hạ Long ca ngợi cuộc sống lao động tập thể tràn ngập niềm vui lãng mạn, hào hứng của những người dân đánh cá xa bờ. Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạtHĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích– GV hướng dẫn hs cách đọc giọng vui, phấn chấn nhịp vừa phảiKhổ 2, 3, 7 giọng đọc cần cao hơn , nhịp nhanh hơnGv đọc mẫu 1 đoạn – 2hs đọc văn bảnGv nhận xét cách đọcI. Đọc và tìm hiểu chú thích1. Đọc– HS đọc chú thích SGK? Em hãy nêu những nét cơ bản về nhà thơ Huy Cận?2. Chú thícha Tác giả Tên đầy đủ là Cù Huy Cận 1919 – 2005 quê Hà Tĩnh– Ông là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới với tập “Lửa thiêng” 1940– Thơ ca sau cách mạng tràn ngập niềm vui tươi, tình yêu cuộc sống là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN– Năm 1996 ông được trao tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật– Tác phẩm chính Lửa thiêng 1940; Trời mỗi ngày lại sáng1958H Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh nào? in trong tập thơ nào của tgiả? HC có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ QNinh . Sau đó hồn thơ HC thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về TN đất nước lao động và niềm vui trước cuộc sống mới– GV so sánh 2 bài thơ Tràng Giang trước CMT8 và Đoàn thuyền đánh cá sau CMT8b Tác phẩm– Bài thơ được sáng tác năm 1958 và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” nhân chuyến ông đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ QNinhc Từ khó SGKHđ2. HDHS đọc – hiểu văn bản– Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh Dựa vào trình tự ấy xác định bố cục của bài thơ? Nội dung của mỗi đoạn là gì?II. Đọc hiểu văn bản1. Thể loại – Phương thức biểu đạt– Thơ tự do– PTBĐ Biểu cảm+kết hợp miêu tả2. Bố cục* Gồm 3 đoạn– Hai khổ đầu Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người– Bốn khổ tiếp Cảnh hoạt động của đoàn thuyền trên biển ban đêm– Khổ cuối Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.– HS đọc diễn cảm 2 khổ thơ đầuBài thơ là những bức tranh lộng lẫy lung linh sắc màu , vang động âm thanh, vừa thực vừa lãng mạn về TN và lao động . Trước hết là cảnh đoàn thuyền ra khơi trong thời điểm hoàng hôn buông xuống và tâm trạng con Hình dung của em về cảnh hoàng hôn xuống biển dựa theo liên tưởng và tưởng tượng của nhà thơ?H Hai câu thơ đầu tgiả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật ấy?3. Phân tícha Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng con người* Cảnh thiên nhiên“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”– NThuật + So sánh mặt trời như quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển-> hoàng hôn đẹp rực rỡ, trỏng lệ. + Nhân hoá vũ trụ như ngôi nhà rộng lớn mà màn đêm là tấm cửa, lượn sóng như những then cài cửa. Vũ trụ th/nhiên là ngôi nhà vĩ đại mà mẹ tạo hoá đã ban tặng cho con ng.⇒ Biển cả hùng vĩ, mênh mông, tráng lệ như thần thoại . Sự sống của biển cả đang dần khép lại đi vào trạng thái nghỉ ngơi trong khi hoạt động của con người mới bắt Đặt trong cảnh TN trên, con người ra khơi trong cảm hứng nào?H Từ “lại” trong câu “Đoàn thuyền lại ra khơi” có hàm ý gì? Em hiểu câu hát “căng buồm” ntn? gợi mơ ước gì của người đánh cá?* HĐ của con người“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”– Từ “lại” diễn tả hoạt động thường xuyên lặp đi lặp lại.– Câu hát căng buồm → niềm vui, lạc quan tin tưởng của người lao động.– Bài ca gọi cá + Nghệ thuật liệt kê, so sánh, nhân mạnh sự phóng phú, rực rỡ đẹp đẽ của các loài cá, sự giàu có của biển, đồng thời thể hiện niềm mong ước đánh bắt được nhiều hải sản xây dựng cuộc sống mới,làm giàu quê hương đất Nhận xét về khí thế của đoàn thuyền ra khơi?H Trong đoạn đầu có sự đối lập giữa hoạt động của thiên nhiên với hoạt động của con người . Diễn giải sự đối lập này? ý nghĩa của sự đối lập?⇒ Đoàn thuyền ra khơi đầy khí thế, hào hùng, phấn khởi, lạc quan của những ng l/đ đc làm chủ làm chủ cuộc đời đi chinh phục thiên nhiên. 4. Củng cố – luyện tập 1. Hai khổ thơ đầu của bài thơ diễn tả điều gì? 2. Biện pháp tu từ nào được dùng trong hai câu thơ sau “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa” 5. Hướng dẫn học sinh về nhà – Học thuộc lòng bài bị tiếp nội dung còn lại. Khám phá thêm tác phẩm ⚡ Lặng Lẽ Sa Pa ⚡ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá Tổng hợp thêm các mẫu sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá. Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá đầy đủ thông tin Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá đầy đủ Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá chi tiết Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá dễ hiểu Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá chi tiết nhất Tham khảo tác phẩm 💚 Làng [Kim Lân] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất Chia sẻ cho bạn đọc 5 mẫu phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Đặc Sắc – Mẫu 1 Huy Cận là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới và là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm như lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo… trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ với cảm xúc của người lao động. Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra ngoài biển trong thời khắc màn đêm dần bao xuống. “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để miêu tả cảnh hoàng hôn, miêu tả cảnh đất trời đang đi dần vào bóng tối. Hình ảnh trong hai câu thơ đầu tiên là một hình ảnh liên tưởng khá đẹp về hoàng hôn “mặt trời” được so sánh giống như “hòn lửa” tạo nên một gam màu rực rỡ trong buổi hoàng hôn. Hình tượng “sóng cài then”, “đêm sập cửa” là những động từ mạnh miêu tả cảnh đất trời chuyển giao giữa ngày và đêm một cách chóng vánh. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, tác giả dùng từ “lại” với ý nghĩa là hành động lặp lại mỗi ngày của người dân làng chài vùng biển. Họ ra khơi đánh cá, ra khơi để kiếm nguồn sống, những người lao động vùng biển vất vả trong khi những người khác sắp sửa đi vào giấc ngủ thì những con người lao động nơi đây lại thức đêm đánh cá. “Câu hát” gợi lên vẻ thanh bình mà cũng không kém phần nhộn nhịp. Người lao động ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu nguồn sống, nên vừa ra khơi họ vừa hát. Hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền, lái thuyền, hát để mọi người cảm nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu ra khơi. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Câu hát vang vọng nơi đất trời, câu hát tạo nguồn sống, tạo niềm tin cho người lao động vùng biển. Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm. “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”, hình ảnh của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau rọi xuống ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn pin của ngư dân, hòa sắc màu tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước. Chính nguồn sáng đó đã tạo cho mặt biển lấp lánh mà tác giả đã khéo léo đặt nó bên từ “dệt”. Một cảm giác hài hòa “dệt” giống như bàn tay mảnh mai của con người tạo nên những tấm lụa phát sáng ngay trên mặt biển. “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”, một vụ cá đánh bắt xa bờ mong muốn thu được mẻ cá lớn để người lao động vùng biển được vui tươi, được no đủ. Bằng tài năng sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với độ liên tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa thực lại vừa ảo. “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Thiên nhiên, đất trời hòa quyện cùng với con người tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp trong liên tưởng của tác giả. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” là những hình ảnh đẹp mang đậm chất hiện thực. Mỗi một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá cũng như tham gia đánh trận, cùng phải dàn binh, bố trận, cũng phải có vũ khí, cũng phải thăm dò, cũng phải đối chọi với thiên nhiên đất trời nơi bão bùng, sóng lớn… Một trận chiến với cá cũng khiến cho con người phải suy nghĩ, phải sống chiến đầu với thiên nhiên nhưng cũng phải hòa quyện cùng với thiên nhiên để tạo ra một tâm thế tốt, một cảnh sắc hài hòa và có nhịp điệu trong cuộc sống. Trong khổ thơ nối tiếp cuộc sống lao động của người lao động, tác giả đã chuyển tiếp sang miêu tả cảnh biển giàu có nguồn cá. “Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.” Có rất nhiều loại cá cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh sự giàu có của biển cả. Lòng đại dương mênh mông rộng lớn, là nơi chứa những nguồn hải sản quý giá. Những hình ảnh chân thực mà ảo diệu đến tinh tường, dưới ánh trăng lấp lánh, dưới mặt nước phản chiếu lung linh, những chú cá quẫy đuôi mình để vùng vẫy, để tự do bơi lội thoải mái cũng đã mắc giăng mẻ lưới của con người. Tiếng “đêm thở”, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm. Tiếng thở ấy, có lẽ là tiếng thở của chính những con người lao động vất vả trên mặt biển để mang về những sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh mịch hòa cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình ảnh rất đẹp mà lại rất gần gũi. “Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân sấu. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, lòng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác. “Sao mờ kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Một vòng tròn quỹ đạo đang chuyển từ đầu đoạn thơ cho tới cuối đoạn thơ. Đoàn thuyền ra khơi từ lúc mặt trời xuống biển cho tới lúc mặt trời mọc, bình minh bắt đầu cho một ngày mới lên. Có thể nói, tác giả đã từng quan sát rất kỹ, đã từng trải nghiệm và cảm nhận về cuộc sống của người lao động làng chài rất kỹ mới có thể viết lên những câu thơ đẹp đẽ đến như thế. “Kịp trời sáng”, “xoăn tay”, “rạng đông”, “nắng hồng” là những từ ngữ được sắp xếp rất đều đặn, rất đẹp, rất có ý tứ. Câu thơ đã nói lên thành quả lao động của con người, sản phẩm họ thu được là thành quả của một đêm dài lao động trên biển một đêm dài lênh đênh trên sóng nước. Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn cá trở về “Câu hát căng buồm cùng gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.” Câu hát cuối bài thơ mang một tâm thế vui tươi, thoải mái, những chiếc thuyền đang tức tốc quay về bờ, hải sản mà người lao động thu được sau một đêm dài miệt mài làm việc cũng đã được báo đáp. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, “Mặt trời đội biển nhô màu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chọn Lọc – Mẫu 2 Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong một dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp của vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hái làm việc cho đất nước. Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động tuyệt đẹp. Mở đầu bài thơ, tác giả gắn liền không gian và thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa. Một bức tranh thiên nhiên đẹp, có cái thoáng rộng của không gian và thời gian của một ngày đang khép lại. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên hình ảnh mặt trời được ví “như hòn lửa” đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Đó cũng là cảnh tượng ấn tượng nhất của đại dương trước khi đi vào yên nghỉ trong đêm. Miêu tả mặt trời, nguyễn tuân cung có điểm nhìn tương như thế “Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng. Lòng đỏ trứng khổng lồ đặt lên một cái mâm bạc rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc đã phủ bóng tối mịt mùng, còn những con sóng như chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Biện pháp nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến thiên nhiên như những con người biết hoạt động, biết nghi ngơi. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đã tạo nên những vần thơ đẹp cho người đọc nhiều ấn tượng. Khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu hoạt động Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ “lại” trong cụm từ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện qua nghệ thuật tương phản giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh vũ trụ và cái động con người. Nhạc điệu cũng có sự đối lập tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp lửa-cửa như khép lại, và những vần bằng khơi – khơi như mở ra, ngân nga kéo dài. Sự đối lập ấy giúp người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh cá ban đêm trên biển là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn quân xông trận vẫn cất cao tiếng hát. Tiếng hát vút lên cùng với những cánh buồm lộng gió “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo được xây dựng bằng trí tưởng tượng, liên tưởng, khiến ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh thổi căng cánh cánh buồm đẩy thuyền rẽ sóng – ra khơi. Cánh buồm no gió, tràn căng tiếng hát biểu hiện niềm lạc quan, tin tưởng, phấn khởi, nhiệt tình tác động của đoàn thuyền. Vẫn nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời hát thể hiện tâm tư người lao động Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Đó chính là ước mơ của bất kỳ người dân biển nào, ước mơ trời yên bể lặng, mong mỏi đánh bắt được nhiều cá và là niềm say mê sự giàu đẹp của quê hương. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những ngư dân từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Lời thơ là một trường liên tưởng nối tiếp với những hình ảnh so sánh, nhận hóa sinh động. Từng đàn cá thu lao trên mặt biển như “đoàn thoi” dệt biển. Con thoi mang sợi tơ dệt vải thì cá thu mang ánh sáng phản chiếu lấp lánh dệt nên muôn luồng sáng lung linh, kỳ ảo trên thảm biển. Và từ đó, tác giả liên tường tiếp “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”. Thật là một sự tưởng tượng độc đáo. Từ hình ảnh đoàn cá “dệt biển” mà kêu gọi “đến dệt lưới ta” đã nói lên ước vọng đánh bắt được thật nhiều cá. Quả thật, sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người chinh phục thiên nhiên. Những từ ngữ trong khổ thơ là bạc”, “cá thu”,”đoàn cá”, “dệt biển”, “dệt lưới” khiến câu hát như một điệp khúc nhấn mạnh sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mãnh liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt qua cả thiên nhiên nữa. Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Lời thơ vẽ ra một bức tranh lông lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn thuyền lái gió, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển, gió, trăng. Từ “lướt” đặc tất cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển của mình. Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ càng hối hả lôi cuốn. Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của người lao động. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải “dò bụng biển”, tìm ra bãi cả, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm với người lao động mới vẽ được bức tranh vừa hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy. Bức tranh lao động được tô điểm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ thuật liệt kê và điệp từ “cá” như khắc họa rõ từng đường nét, góp phần làm biển trở nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận được cái giàu đẹp của biển, vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vảy đen, hồng, lấp lánh trên biển, chan hòa trong ánh trăng “vàng choé”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối màu tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên trong vũ hội Cảnh đẹp không chi ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn đàn cá bơi lượn, nhà thơ lẳng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm. Đêm được nhân hóa như một sinh vật của đại dương; “Đêm thở”. Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đợt sóng “lùa”, mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. Nó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị. Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, ng đây không phải là con người mà ánh trăng trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng” gõ thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hỉnh ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát ca ngợi biển “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Biển ta giàu đẹp. Biển ta bao dung. Biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm cá, muối, hải sản… Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân chài từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ. Bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương, cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trương. Hình ảnh “kéo xoăn tay” miêu tả dáng người dân chài mạnh mẽ, nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong cái “chùm cá nặng”như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được. Lưới kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang” cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp . Những câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới bình thường. Câu thơ cuối nhẹ thơ gọn, dứt khoát kết thúc một cuộc hành trình gian nan. Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người. Câu hát căng buồm với gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp của một ngày mới, đoàn thuyền trở về với cá đầy áp mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Mở đâu bài thơ là hình ảnh “mặt trời xuống”, giờ là “mặt trời đội biển” nhô lên giữa những sóng nước mênh mông. Không khí lao động cực kỳ phấn khởi bởi niềm vui chiến thắng, bởi thái độ nhiệt tình, yêu lao động. Bài thơ khép lại nhưng mở ra một tương lai tươi sáng hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hăng say, hào hùng. Băng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiêu vẻ đẹp sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề. Vì vậy, đọc bài thơ ta càng thêm yêu đất nước và con người lao động Việt Nam. Bài thơ lặp lại 4 lần chữ “hát” thực chất là một bài ca, một tráng khúc vê lao động và vê thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Khúc ca ấy vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ. Chính vì vậy, “Đoàn thuyền đánh cá” được xem như bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Niềm tin ấy đã giúp nhà thơ có tinh thần lạc quan và yêu đời hơn. Đoàn thuyền đánh cá thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì đất nước giàu đẹp của những người lao động mới. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và người lao động, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống con người. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Nổi Bật – Mẫu 3 Nếu trước cách mạng, hồn thơ Huy Cận mang nỗi buồn vạn kỷ thì sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh làm nảy nở trở lại thi hứng của nhà thơ. Bài thơ “ Đoàn thuyền” ra đời trong thời gian ấy, đó là niềm vui trước cuộc sống hối hả và thiên nhiên đất nước. Cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá mở ra ba khoảng không, thời gian khác nhau ra khơi, đánh cá và khi trở về. Không gian đất trời rộng lớn được khắc họa qua vài nét chấm phá tài hoa, hình ảnh một ngày tàn hiện lên thơ mộng nơi biển cả mênh mông “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa” Hình ảnh so sánh độc đáo ông mặt trời khổng lồ như hòn lửa đang từ từ lặn xuống phía đại dương và gồng mình gom lại những tia nắng trong ngày tạo nên không gian hùng vĩ. Liên tưởng táo bạo của tác giả kết hợp với biện pháp nhân hóa biến “ sóng” như một sinh thể cài cửa khi màn đêm buông xuống. Qua đó giúp người đọc hình dung vũ trụ như một ngôi nhà lớn chứa đầy bí ẩn sau bức màn đen huyền bí. Bóng tối bao trùm là lúc các hoạt động tạm dừng lại nhưng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá phác họa trên nền bức tranh rộng lớn “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Hình ảnh hoán dụ “ đoàn thuyền, câu hát” chỉ người dân chài lưới bắt đầu cuộc hành trình khám phá đại dương bao la. Câu ca ngân vang gợi khí thế hào sảng, tươi vui tràn đầy năng lượng. Tinh thần lạc quan ấy ta từng bắt gặp trong dòng suy nghĩ của ông lão đánh cá trong tiểu thuyết “ Ông già và biển cả”. Lời hát cất lên thật ý nghĩa “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Câu hát luôn đồng hành cùng chặng đường gian nan phía trước của người dân chài. Họ ngợi ca sự giàu có của biển Đông “ cá bạc, cá thu như đoàn thoi”, ý thơ gợi sự trù phú của biển cả “ rừng vàng biển bạc”, như thuyền trưởng Ne-mo trong tiểu thuyết “ Hai vạn dặm dưới đáy biển” từng tự hào về nguồn tài nguyên bất tận đó. Trong câu ca còn chứa đựng mong ước của người dân về một chuyến ra khơi bình an biển lặng, bội thu dệt lưới, từng đoàn cá như người bạn gần gũi song hành cùng đoàn thuyền. Chúng kết thành luồng sáng để dẫn đường cho họ và lời gọi “ đoàn cá ơi!” cũng khẳng định tình cảm đặc biệt giữa người dân và biển mẹ. Con thuyền no gió biển khơi lướt đi hiên ngang giữa lòng biển vô cùng khơi dậy hình ảnh sống động “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Những chuyến ra khơi cô đơn bởi thiên nhiên ưu ái cũng kề vai sát cánh cùng con người. Bút pháp phóng đại gợi trong ta trưởng liên tưởng sức gió làm bánh lái đưa con thuyền ra biển căng tràn năng lượng như con tuấn mã, vầng trăng làm cánh buồm, thiên nhiên cũng góp sức cùng con người và người lao động đã làm chủ thiên nhiên. Một loạt động từ “ lướt, ra đậu, dò, dàn thế trận” không chỉ gợi tốc độ phi thường mà còn hành động dứt khoát của đoàn thuyền trước thế trận của biển cả. Điểm nhìn thay đổi, nhà thơ ghi lại sức sống của biển với vô vàn loài cá quý “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song”, khoảng không im lặng như nghe được tiếng thở của đại dương. Hình ảnh nhân hóa sáng tạo “ sao lùa nước Hạ Long” dường như những vì sao rơi xuống dòng chảy tạo nên nhịp sống bất tận. Lời ca vang lên gọi cá vào lưới có sự giúp đỡ của vầng trăng gõ vào mạn thuyền. Đồng thời câu hát thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với biển mẹ hiền từ đã nuôi lớn những người con vùng biển “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Cuộc hành trình đầy vất vả nhưng niềm tin tưởng vào sức mình đã giúp họ vượt lên tất cả. Hình ảnh đoàn thuyền kéo lưới là lúc người dân chài gặt hái thành quả lao động “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngVẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.” Sức khỏe cường tráng của cơ bắp dồn lại để cất mẻ cá nặng, đó là món quà hậu hĩnh của thiên nhiên đáp trả công lao của người dân. Những chú cá nằm trong lưới ánh lên sắc tươi sáng rạng đông được liên tưởng như những sản vật quý hiếm “ vàng, bạc” của biển cả. Hình ảnh “ nắng hồng” gợi nét duyên dáng, trẻ trung của buổi bình minh trên biển. Trải qua một đêm dài trên biển, giờ đây đoàn thuyền lại chạy hết tốc lực trở về đất liền cho kịp phiên chợ sáng “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” Lời hát đầy lạc quan lại ngân vang chứa niềm tin, nghị lực sống bền bỉ của người dân làng chài. Chi tiết “ mặt trời” tỏa vầng sáng tươi mới khắc tạc một bình minh diễm lệ, huy hoàng. Nơi khoang thuyền đầy ắp cá cũng chứa đựng hàng ngàn mặt trời bé con, nới thắp sáng niềm vui sống mãnh liệt. Bằng thể thơ thất ngôn mang âm hưởng hào hùng, khỏe khoắn, nhà thơ Huy Cận không chỉ phác họa hình ảnh tráng lệ của thiên nhiên đất nước và cuộc sống lạc quan, hối hả của người dân lao động mà còn thể hiện tình yêu, niềm tự hào của một thi nhân. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiêu Biểu – Mẫu 4 Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Thơ ông dồi dào cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ, và con người lao động. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, khi bằng bút pháp lãng mạn bay bổng, thi phẩm đã tái hiện sự hài hòa của vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào, niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” quả thực đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời vào năm 1958 in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”, khi đó miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước và con người lao động, niềm vui trước cuộc sống mới. Bài thơ có bảy khổ thơ, được triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi, tiếp nối là cảnh đánh cá trên biển và cảnh đoàn thuyền trở về. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi hoàng hôn xuống được tác giả miêu tả sinh động trong hai khổ thơ đầu “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên, hình ảnh “mặt trời” vào cuối ngày, đang từ từ lặn vào dòng biển khơi, dưới sự liên tưởng phong phú của thi sĩ, mặt trời lại được nhân hóa như con người đang xuống biển, được so sánh như “hòn lửa” rực rỡ. Hình ảnh ấy đã gợi ra một không gian lung linh, tráng lệ tuyệt đẹp, mà rất ấm áp, gần gũi với con người. Cùng với “mặt trời”, “sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa thực hiện những hành động “cài then”, “sập cửa” đánh dấu sự chuyển giao giữa ngày và đêm. Đây là những liên tưởng rất thú vị và đặc sắc. Thiên nhiên, vũ trụ như một ngôi nhà khổng lồ, với màn đêm là những cánh cửa đang đóng sập xuống, những con sóng đang chuyển động là chiếc then cài cửa. Lúc ấy, cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Ta có thể dễ dàng thấy một không khí tập thể đầy khí thế và ra khơi là hoạt động thường xuyên diễn ra khi nhà thơ sử dụng hình ảnh “đoàn thuyền” kết hợp từ “lại”. Một không gian đông vui tấp nập đã được gợi ra qua những tiếng hát của người ngư dân làng chài trên biển khơi rộng lớn. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Nhà thơ đã sử dụng phép liệt kê và nghệ thuật so sánh tinh tế ngợi ca sự giàu có của biển cả quê hương đêm ngày, từng đoàn cá đã dệt nên bức tranh tươi đẹp của biển khơi với muôn luồng sáng ngoài biển. Lời thơ đã thể hiện mong muốn công việc đánh cá thu được thành quả tốt đẹp. Tiếng ca trên biển mang theo khao khát chinh phục biển rộng của những người ngư dân nơi đây. Tiếp theo cảnh ra khơi, bốn khổ thơ sau, tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển, trời, trăng, sao được thể hiện qua những liên tưởng, sáng tạo mà cũng rất đời sống, hiện thực “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng” Bằng bút pháp lãng mạn, thi sĩ đã vẽ ra trước mặt người đọc một hình ảnh thật kỳ vĩ, khi trên biển cả mênh mông, vốn là chiếc thuyền sẽ càng trở nên nhỏ bé, thì ở đây chiếc thuyền như hóa lớn hòa nhập với không gian rộng lớn của thiên nhiên. Gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm như đưa đoàn thuyền chạm tới mây trời. Trên nền ấy, những người ngư dân cũng như trở thành những người anh hùng của biển khơi. Họ ra đậu tận dặm xa dò trong lòng biển luồng cá để khai thác, và rồi dàn đan thế trận thả lưới vây giăng. Các động từ mạnh được nhà thơ sử dụng đã gợi tả vẻ đẹp lao động, khỏe khoắn, của người ngư dân. Công việc lao động nhọc nhằn của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy hứng khởi giữa thiên nhiên. Và người lao động vừa hăng say làm việc vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển cả với bao loài cá “Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” Nghệ thuật liệt kê “cá chim, cá nhụ, cá đé, cá song” đã phát huy triệt để tác dụng để ngợi ca sự giàu có, thật nhiều tài nguyên của biển khơi đất nước. Biển cả không chỉ giàu mà còn rất đẹp, với ngọn “đuốc đen hồng” cá song đang lao đi trong biển cả dưới ánh trăng lấp lánh. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra chấm tròn đen, hồng trên thân cá song tựa như những ngọn đuốc rực rỡ. Tô thêm vẻ đẹp nơi biển cả, chính là ánh trăng vàng chóe, ánh trăng như dát vàng trên mặt nước để cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra. Trí tưởng tượng của Huy Cận là vô hạn với tiếp một hình ảnh nhân hóa, “đêm thở”, “sao lùa”. Sao trên trời in hình xuống dòng nước, những con sóng đánh lên, mà tưởng như sao đang lùa dưới đáy đại dương như một sinh vật đang di chuyển, tiếng rì rào của sóng biển chính là tiếng thở của đêm. Sau khi thả lưới và đợi chờ, người ngư dân bắt đầu gõ thuyền, dồn cá vào lưới trong tiếng hát ngân vang “Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng cao” Đó là tiếng hát khỏe khoắn, vang xa đầy sự lạc quan, niềm vui phấn khởi đã tạo động lực cho người dân chài gọi cá đến mắc lưới. Thiên nhiên dường như cũng thức dậy góp phần sức lực trợ giúp con người. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in mình trên mặt nước, sóng xô bóng trăng vào mạn thuyền khiến nhà thơ tưởng tượng mặt trăng đang giữ nhịp cho tiếng gõ thuyền đều đặn. Hòa với khúc ca lao động, người dân chài cũng cất khúc ca biết ơn, tri ân với biển cả “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào” Biển được nhân hóa như lòng mẹ ân nghĩa, thủy chung bao la. Biển cho con người cá, đem đến cuộc sống ấm no bao đời nay, lời hát đã thể hiện tình cảm biết ơn chân thành, sâu sắc của người ngư dân với biển cả quê hương.. Khi sao mờ dần, màn đêm dần dần nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu kéo lưới, thu hoạch thành quả “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng.” Chi tiết đặc tả “ta kéo xoăn tay” đã khắc họa trực tiếp vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động miền biển. Con người như đang khẩn trương chạy đua với thời gian, những động tác kéo lưới rất căng, rất khỏe, kéo thật mạnh, thật đều tay để thu hoạch được những thành quả tốt nhất. Thành quả ấy chính là “chùm cá nặng”, một hình ảnh tượng trưng cho mùa cá bội thu, một thành quả vô cùng xứng đáng với công sức của những người ngư dân. Cùng lúc ấy, từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng, những con cá quẫy dưới ánh sáng rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rực rỡ, huy hoàng. Phải chăng biển bạc, biển vàng đang ban tặng cho tinh thần lao động miệt mài, hăng say, không biết mệt mỏi của người dân làng chài? Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến, sau một ngày lao động. trên biển tràn ngập âm thanh tiếng hát của những người ngư dân “Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Câu hát vang lên như một điệp khúc suốt từ đầu tới cuối bài thơ, suốt hành trình của người ngư dân. Âm hưởng lời thơ trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn hơn, vút cao bay bổng trong niềm hứng khởi khi tác giả thay chữ “cùng” thành chữ “với”. Tác giả sử dụng bút pháp nhân hóa kết hợp phóng đại khi đặt “đoàn thuyền” sánh ngang, tham gia vào “cuộc đua” với mặt trời. Trong cuộc đua ấy, hình ảnh con người được nâng cao, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ. Đây cũng chính là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi con người về bến, mặt trời cũng bắt đầu một ngày mới. Những tia nắng hồng ban mai khiến mắt cá lấp lánh như những mặt trời nhỏ trải dài bờ biển đến muôn dặm. Bằng lao động, người dân làng chài đã viết nên bài ca chiến thắng, bài ca cuộc đời mới tươi đẹp. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của Huy Cận. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, bay bổng, liên tưởng phong phú, sáng tạo, nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa với vẻ đẹp con người lao động, tạo nên khúc tráng ca hùng tráng, mĩ lệ. Qua đó, Huy Cận đã thể hiện tấm lòng ca ngợi, niềm tự hào về con người mới, cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Ấn Tượng – Mẫu 5 Năm 1958, sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Huy Cận đã có một chuyến đi thực tế tại Hòn Gai. Trong chuyến đi ấy, ông đã được chứng kiến tinh thần lao động, sự hăng say và niềm vui phấn khởi con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là niềm cảm hứng để ông viết lên tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá. Vì thế đã có ý kiến cho rằng “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc tráng ca của người lao động trên biển”. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được kết hợp bởi hai nguồn cảm hứng là cảm hứng lãng mạn và cảm hứng vũ trụ. Bởi bài thơ được viết khi miền Bắc bước vào thời kì xây dựng mới với niềm vui, niềm hào hứng của những người lao động được làm chủ cuộc đời của mình. Và tại biển Hòn Gai, những người ngư dân ở đây đã hòa mình trong niềm vui ấy, hăng say ra khơi. Đó là lý do người ta gọi Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển. Khúc tráng ca là một từ Hán Việt có ý nghĩa là một ca khúc, một bài hát có nội dung hùng tráng ca ngợi chiến công, kỳ tích của con người, cổ vũ những con người vì việc nghĩa mà dám dấn thân vào những việc nguy hiểm trong khung cảnh tráng lệ và kỳ vĩ của thiên nhiên. Ở đây, những người ngư dân biển đã dám dấn thân mình, bước vào cuộc hành trình đánh bắt cá trong đêm vất vả, gian khổ. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã dựng lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ cùng với khung cảnh hăng say lao động của những người ngư dân “Mặt trời xuống biển như hòn đã cài then đêm sập cửa.” Khung cảnh mở ra đẹp đẽ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy và rực rỡ ánh sáng. Mặt trời được so sánh “như hòn lửa” đỏ rực giữa không trung. Đây là một cách so sánh rất độc đáo gợi lên khung cảnh mặt trời đang từ từ lặn xuống và màn đêm bắt đầu buông. Không gian được mở ra vô cùng vô tận, thiên nhiên, vũ trụ như hoà vào cùng nhau. Phép so sánh cũng làm tăng thêm vẻ kỳ vĩ và huy hoàng của thiên nhiên. Không chỉ vậy, ở câu thơ tiếp theo, Huy Cận đã dùng biện pháp nhân hóa “Sóng đã cài then đêm sập cửa” để diễn đạt bước chuyển tiếp của thời gian. Cả vũ trụ bao la rộng lớn bước vào trạng thái nghỉ ngơi. Cái mênh mông to lớn của đêm đen mở ra vô tận, không gian từ trạng thái động chuyển sang tĩnh. Chính lúc ấy mở ra là thời gian, không gian mới của con người. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ còn được thể hiện ở cuối bài thơ, khi mà con người trở về sau một đêm vất vả “Mặt trời đội biển nhô màu mới” Nếu như ở những dòng đầu tiên là khung cảnh mặt trời lặn thì ở đây là khung cảnh của bình minh khi mặt trời đã thức giấc. Mặt trời như đội cả biển cả mênh mông để nhô lên trong màu áo mới rực rỡ “nắng hồng”. Khung cảnh thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả hết sức tráng lệ và rực rỡ. Nổi bật trên khung cảnh đó là sự lao động hăng say của con người. Họ hăng say lao động, cố gắng cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng của Tổ quốc để từ đó làm nên khúc tráng ca bất tận của những người lao động trên biển. Đầu tiên phải kể tới đó là khi những người lao động đó bắt đầu hành trình đánh bắt cá của mình. Họ dong buồm ra khơi với một tinh thần phấn khởi, say mê, trong tiếng hát vui mừng “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Từ “lại” trong câu cho thấy, đây không phải là lần đầu tiên ra khơi của họ mà chỉ là công việc thường ngày họ vẫn hay làm. Gió thổi, màn đêm buông là khi họ “căng buồm”, dong con thuyền lớn ra khơi đánh cá. Và công việc của họ đã bắt đầu như thế, cùng với tiếng hát, họ cất lời ca gọi cá vào. Tiếng ca chứa chan khao khát chinh phục biển cả, khao khát được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Khung cảnh tiếp theo là khung cảnh mà đoàn thuyền bắt đầu công việc đánh cá của mình. Giữa một không gian bao la của biển, trời, trăng, sao, vốn con thuyền hiện lên sẽ thật nhỏ bé nhưng ở đây, nó lại được thổi bùng thành một con thuyền to lớn mà hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng” Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã vẻ lên một hình ảnh đẹp kỳ vĩ. Con thuyền của người ngư dân giờ đây được gió cầm lái, ánh trăng trở thành cánh buồm, con thuyền như được bay cao, chạm tới tận trời cao, vũ trụ thênh thang. Và những người ngư dân, họ là những người anh hùng của biển cả. Giữa biển cả to lớn ấy, họ trở thành chủ nhân, “ra” tận “dặm xa” để thăm dò luồng cá rồi “dàn đan thế trận” mà đánh bắt cho đầy khoang. Họ làm việc hăng say, miệt mài với mong ước là từng loài cá quý hiện lên trong niềm vui sướng “Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóeĐêm thở sao lùa nước Hạ Long” Nghệ thuật liệt kê cho thấy sự giàu có của biển cả quê hương ta với muôn loài cá quý hiếm. Sau khi thả lưới, người ngư dân chờ đợi trong tiếng gõ thuyền gọi cá vào “Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng caoBiển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Tiếng hát khỏe khoắn trong niềm phấn khởi của người ngư dân là bài ca gọi cá vào lưới. Thiên nhiên như bắc nhịp cầu, “nhịp” cho tiếng gõ gọi cá ấy. Bài ca gọi cá cũng là bài ca biết ơn biển cả đã cho ta nguồn sống, “nuôi lớn” chúng ta. Khi trời đang dần về sớm, “sao mờ” thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu thu lưới. “Sao mở, kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng loé rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Hình ảnh “kéo xoăn tay” cho thấy sự khỏe khoắn của những con người lao động trên biển. Họ đang nhanh tay “chạy đua” cùng với mặt trời, cùng với thời gian để trở về bến. Và kết quả là một mùa cá bội thu, xứng đáng với công sức mà người ngư dân đã bỏ ra. Dưới ánh sáng của rạng đông với màu hồng rực rỡ, từng đàn cá với “vảy bạc đuôi vàng” lấp lánh dưới ánh nắng ban mai. Kết thúc là hình ảnh của người ngư dân đang bơi thuyền trở về sau một đêm vất vả “Câu hát căng buồm cùng gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” Câu hát lại vang lên trong niềm say mê, đoàn thuyền “chạy đua” với “mặt trời” để trở về bến. Tầm vóc của con người đã được nâng lên, sánh với vũ trụ mênh mang. Một khoang thuyền đầy cá là một chiến công, kỳ tích với những người ngư dân biển khi họ đang bước vào thời kì xây dựng đất nước. Đây cũng là niềm vui, niềm phấn khởi của họ khi được làm chủ cuộc đời mình. Không chỉ vậy, âm điệu, âm hưởng của lời thơ cũng là một lý do khiến cho bài thơ trở thành một khúc tráng ca bất tận. Nhịp thơ năm chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập giọng điệu sôi nổi, say mê đã khiến bài thơ như một khúc ca vang vọng trong lòng mỗi chúng ta. Đặc biệt Huy Cận còn dùng rất nhiều từ “hát” như để hoà vào khúc ca trong thơ ông, thể hiện niềm vui tươi, yêu đời, lạc quan đồng thời thể tình yêu cuộc sống và niềm vui được làm chủ cuộc đời mình. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn ngân mãi trong lòng chúng ta. Bởi trong đó chứa đựng chiến tích của những người ngư dân biển, của những con người dám đối mặt với thiên nhiên để tạo nên những kỳ tích tuyệt vời. Có thể khẳng định rằng Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển.

phân tích khổ 2 bài đoàn thuyền đánh cá